Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 16: Được và mất của nền giáo dục hạn chế

by Hà Giang
Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 15 Hai cuốn sách giáo khoa đáng chú ý

TRẦN NHẬT VY

Chỉ tính riêng trong nửa cuối thế kỷ 19, nền giáo dục hạn chế của nhà cầm quyền Pháp trong việc đẩy mạnh việc phổ biến chữ quốc ngữ thay cho chữ nho, đồng thời đào tạo một lớp công chức có cái được có cái không được. 

Cái không được là phần lớn dân chúng Nam kỳ vẫn coi chữ quốc ngữ là thứ chữ ngoại lai, không phải chữ của cha ông. Do vậy, rất nhiều học sinh do cha mẹ cấm cản, do bạn bè châm chọc, do lo sợ mất gốc… đã bỏ học sau vài năm tới trường. Nhiều trường làng, tổng ở xa tỉnh lỵ, thị xã các giáo viên thường dạy cầm chừng để đối phó với thanh tra giáo dục, để mặc học sinh vui chơi là chính. Từ đó, số học sinh học hành đàng hoàng, chăm chỉ để lên tới các lớp trên ở Sài Gòn hay Mỹ Tho ngày càng ít. Sự thất bại này nhận được nhiều lời chê bai, dè bỉu của các cấp chánh quyền từ các chuyên gia giáo dục lẫn những người làm chính trị với nhận định “dạy chữ quốc ngữ cho học trò chỉ đủ đọc mấy dòng tin trên tờ Gia Định Báo!”.

Song không thể nói là chương trình không thành công. Thành công lớn nhất của nền giáo dục này là “loại bỏ được chữ nho ra khỏi đời sống dân chúng” và “đưa được chữ quốc ngữ vào đời sống Nam kỳ” trong chừng mực có thể. Cũng vì vậy mà những người đạt được những thành công nhất định trong nền giáo dục này nhanh chóng được tuyên dương, được có những vị trí tốt trong hệ thống cầm quyền ở Nam kỳ. Sự thành công này có hai mặt. Một mặt là tạo được một lớp thầy giáo giỏi, có tiếng tăm để thuyết phục giới học thuật và trí thức bản địa. Mặt khác chính là góp phần khá tốt vào việc tạo lập một nền giáo dục chữ quốc ngữ về sau này, thứ chữ đã được người Việt dầy công học hành, phổ biến, đào tạo để rồi trở thành báu vật của người Việt.

Trong số những người thành công của nền giáo dục hạn chế ở cuối thế kỷ 19 có không ít tên tuổi đáng cho chúng ta ghi nhớ. Đó là các ông Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương, Trần Đại Học, Nguyễn Trọng Quản, Nguyễn Khắc Huề, Nguyễn Dư Hoài, Lương Khắc Ninh, Nguyễn Hữu Ngãi, Trần Đắc Nghĩa, Lê Văn Đức, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắc…

Các ông này hoàn toàn trưởng thành và học hành trong nền giáo dục hạn chế và trở thành những thầy giáo giỏi, nhà văn, nhà báo có tiếng đương thời với nhiều đóng góp về mặt ngôn ngữ lẫn báo chí. Nếu không có những người này, chưa chắc ngày nay chúng ta có được một nền học vấn chữ quốc ngữ đủ sức đứng cùng với những thứ chữ khác trên thế giới.

Có lẽ ông Trương Minh Ký là người đáng xếp hàng đầu tiên trong số những thầy giáo, nhà báo, nhà văn, dịch giả trong thời kỳ này.

TRƯƠNG MINH KÝ- NHÀ VĂN VIẾT BẰNG QUỐC NGỮ – Trung Học Chợ Lách
Ông Trương Minh Ký

Ông Trương Minh Ký [1855-1900] lớn lên khi người Pháp đã làm chủ Nam kỳ. Là người gốc Quảng Bình, là cháu họ của Tướng Trương Minh Giảng, sanh trưởng tại Gò Vấp [nay còn nhà tổ của ông ở quận này], ông được học chữ quốc ngữ và chữ Pháp ở trường Chợ Lớn và chữ nho từ gia đình bà nội. Sau khi mẹ mất lúc bảy tuổi, cha tục huyền, ông được đưa về Chợ Lớn ở với bà nội là bà Trịnh Thị Thu ông, một người Minh Hương [theo gia phả dòng họ Trương, do nhóm làm gia phả TPHCM sao lục, biên dịch và in, phát hành năm 1998]. Tại đây, ông vào học ở trường Chợ Lớn cho đến hết Sơ đẳng tiểu học vào năm 1871, rồi thi vào trường Sư phạm thành phố ở Sài Gòn. Hai năm sau, 1873 ông ra trường và trở thành thầy giáo dạy chữ nho ở trường Chasseloup Laubat, tức trường Lê Quý Đôn ngày nay. Và Chợ Lớn cũng là nơi ông cư ngụ suốt đời và mất tại đây vào năm 1900.

Cần nói thêm về trường Chợ Lớn. Cho tới nay, hồ sơ lịch sử ngôi trường này gần như trống. Chúng tôi chỉ biết trường Chợ Lớn nay là trường trung học phổ thông Hồng Bàng nằm trên đường Hùng Vương ở quận 5, Sài Gòn. Khu đất mà trường Chợ Lớn được mở chính là một phần đất của ngôi chùa mà người Pháp đặt tên là “chùa Chuông”. Ngay sau khi Pháp chiếm Sài Gòn năm 1859, chùa này đã bị chiếm làm doanh trại của lính Pháp. Nơi đây đã diễn ra một số trận đánh đẫm máu giữa quân Pháp và Việt vào cuối năm 1860. Và cũng giống như trường Bổn Quốc nằm trong khu vực chùa Khải Tường sát với doanh trại của Pháp, trường Chợ Lớn cũng nằm trong khu vực chùa Chuông. Không rõ thời điểm ra đời của trường này. Song nếu tính thời điểm ông Ký đi học sơ học, rồi tiểu học tức năm 1862-1864, thì có lẽ trường ra đời chỉ sau trường Bổn quốc chút ít. 

Ông Ký sanh năm 1855, khi Pháp chiếm Sài Gòn ông vừa bốn tuổi. Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ năm 1862, ông được bảy tuổi. Đây là cái tuổi bắt đầu đi học của con nít Việt. Năm 1862 cũng là năm mà người Pháp mở trường Bổn quốc dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp; bắt đầu mở ra nền giáo dục chữ quốc ngữ ở Nam kỳ. Nếu bắt đầu từ những năm này, có thể chậm hơn một chút, thì trường Chợ Lớn cũng phải được thành lập vào khoảng 1863-1865. 

Ngôi trường này phần lớn là dành cho con em người Hoa, song phần đông người Hoa lại ít người học chữ quốc ngữ mà đa số học sinh là người Việt ở vùng đất thuộc tỉnh Chợ Lớn xưa, bao gồm tỉnh Long An ngày nay. Trong danh sách 40 học trò đậu vào trường Sư phạm thành phố năm 1871 mà chúng tôi tìm được trên Gia Định Báo chỉ có vài học sinh trường Chợ Lớn.

Ông Ký cũng tiến thân khá nhanh sau khi làm thầy giáo ở trường Chasseloup Laubat. 

Năm 1879, nhà cầm quyền Pháp thay đổi chính sách cai trị, chuyển từ “quân quản” tức quân đội nắm chánh quyền, sang “dân sự”. Thống đốc dân sự đầu tiên là ông Le Myre de Vilers. Ngay sau khi ngồi vừa ấm chỗ, đầu năm 1880 ông Thống đốc dân sự này chọn thầy giáo trẻ Trương Minh Ký mới 25 tuổi khá có danh trong nghề dạy học, dẫn một số học sinh sang Alger du học. Khi ấy, ông Ký đã dùng phương pháp riêng của mình để dạy học sinh dễ học chữ nho, chỉ trong vòng một năm học sinh có thể viết thư về cho gia đình được. Phương pháp này dạy từ dễ đến khó và được phổ biến trong các trường dạy chữ nho, đến giữa thế kỷ 20 mới có sự thay đổi! 

Các học sinh mà ông dẫn đi Alger khi ấy có Diệp Văn Cương, Nguyễn Trọng Quản, Lê Văn Hộ, Nguyễn Văn Hườn, Lê Văn Võ, Lê Văn Vấp, Joseph Ngọc, Trần Bá Hy, Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Văn Cẩn. Trong số này, về sau hai ông Diệp Văn Cương và Nguyễn Trọng Quản đều nổi tiếng trong giới trí thức ở Sài Gòn. Ông Cương nổi tiếng là thầy dạy học, còn ông Quản nổi tiếng về nghề văn dù ông viết không nhiều và là rể của ông Trương Vĩnh Ký. Đây là lần đầu tiên một thầy giáo người Việt ở Nam kỳ dẫn học sinh đi du học. Trước đó, các chuyến đi đều do người Pháp dẫn đi. 

Sau chuyến đi này trở về, ông được bổ nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định Báo và làm chủ bút tờ báo này cho tới năm 1896. Nếu khi làm thầy giáo ông có phương pháp dạy chữ nho tốt, thì khi làm báo ông lại nổi tiếng khi mở đầu hai chuyện cho nền báo chí về sau này. Đó là đăng truyện nhiều kỳ và tổ chức trang quảng cáo báo chí. 

Ngày nay, hầu hết các tờ báo dù là nhật báo hay tuần báo, bán nguyệt san hay nguyệt san hoặc tam cá nguyệt đều thường có quảng cáo và truyện, tiểu thuyết nhiều kỳ. Quảng cáo giúp cho giá báo thấp đến gần với người mua, còn truyện lại lôi kéo người đọc báo đến với tờ báo. Các nhà báo, những nhà quản lý báo chí nên nhớ người mở đầu cho quảng cáo và đăng truyện trên báo chính là ông Trương Minh Ký. 

Năm 1889, ông được Thống đốc Nam kỳ cử làm thông ngôn chánh thức cho đoàn sứ giả triều Nguyễn sang dự Hội chợ Paris, do Quỳnh Quốc Công Miên Triện, con trai thứ 66 của vua Minh Mạng, dẫn đầu.

Sau các chuyến đi này về ông có viết mấy cuốn sách theo thể văn vần là Như Tây Nhựt Trình và Chư Quốc Thại Hội.

Cũng cần biết, theo cơ chế của nhà cầm quyền Pháp ở Nam kỳ, tất cả những ai làm việc liên quan đến “chữ” thì đều thuộc Phòng Thông ngôn của phủ Thống đốc Nam kỳ quản. Vì vậy, việc một thầy giáo đang dạy học được phân công làm báo, rồi đi phiên dịch là chuyện bình thường. 

Năm 1897, ông về làm chủ bút tờ báo tư nhân là tờ Nam Kỳ. Xin lưu ý, đối với người miền Nam, nhựt trình chính là tờ báo, không phải là nhật báo. Giáo sư Nguyễn Văn Trung trong cuốn Lục châu học đã lầm khi ghi tên tờ báo này là “Nam Kỳ Nhựt Trình”.

Thật ra, tên báo là Nam Kỳ, “nhựt trình mỗi tuần lễ in một lần nhằm ngày thứ năm”, tức là một tờ tuần báo. Nam Kỳ là tờ tuần báo của tư nhân và là tờ báo thông tin đúng nghĩa như ngày nay. Báo có 16 trang, gồm 8 trang nội dung với tin tức trong nước và thế giới; có bình luận, tường thuật; có văn học gồm thơ văn. Truyên 1001 đêm của Ả Rập được dịch và đăng nhiều kỳ lần đầu tiên trên tờ báo này. 8 trang còn lại là quảng cáo. Có thể coi đây chính là tờ báo quốc ngữ tân tiến đầu tiên của Việt Nam. Đáng tiếc tờ báo này đình bản vì lý do riêng phải về Pháp của ông chủ báo; và đình bản vĩnh viễn vì chủ bút, tức ông Trương Minh Ký, đột tử vào tháng 8-1900 ở tuổi 45 chỉ sau khi báo đình bản vài tháng!

Trong thời gian làm báo ông vẫn tiếp tục dạy học và viết nhiều sách dạy chữ nho có cả tiếng Việt lẫn tiếng Hán. Đồng thời ông cũng biên dịch và sáng tác nhiều truyện, thơ, kịch, tuồng hát bội…

Sau năm 1975, các con đường mang tên ông ở Sài Gòn và Gia Định đều bị xóa để thay tên người khác. Rất có thể, những người phụ trách việc đặt tên đường ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định sau năm 1975 hoàn toàn không phải là người bản địa và gần như không biết gì nhiều về lịch sử lẫn nhân vật của Nam kỳ trước đây. Và cũng có thể người ta lầm giữa Trương Minh Ký và Trương Vĩnh Ký. Ông Trương Vĩnh Ký tới nay vẫn “bị coi” là người hợp tác “có công trạng” với nhà cầm quyền Pháp ở Nam kỳ. Trong khi đó, ông Trương Minh Ký chỉ là một thầy giáo, một nhà báo đơn thuần lại lớn lên trong thời gian Pháp chiếm Nam kỳ, học hành và làm việc không gắn với người Pháp là chuyện lạ! Vả lại, ông cũng là người có công đáng kể đối với chữ quốc ngữ, xứng đáng có một con đường mang tên ông ở chính nơi ông sinh ra và mất đi!

Cũng trong cuối thế kỷ 19, ông Diệp Văn Cương cũng là một nhân vật thành công của nền giáo dục hạn chế. 

Ông Cương sanh trưởng ở Gò Vấp, học trường làng, rồi trường ở Sài Gòn, rồi du học ở Alger. Ông về nước khoảng năm 1885, làm thông ngôn cho phủ thống đốc Nam kỳ. Sau đó, ông được cử ra Huế làm thông ngôn cho phủ Thống sứ. Trong thời gian làm việc ở Huế, ông cưới bà vợ thứ hai là một công nữ, cô của vua Thành Thái và có một con trai về sau cũng khá nổi tiếng trong nghề báo ở Sài Gòn là Diệp Văn Kỳ. Sau khi, thôi làm việc ở Huế, ông được chuyển về làm thông ngôn ở Vĩnh Long, rồi Chợ Lớn và cuối cùng là về làm việc ở Phòng thông ngôn trực thuộc Phủ Thống đốc Nam kỳ ở Sài Gòn. Trong thời gian ở Sài Gòn ông được bổ nhiệm thêm chức giáo sư dạy học ở trường Chasseloup Laubat. Đầu thế kỷ 20, ông được bổ nhiệm làm Chánh tổng tài của Gia Định Báo và hai năm sau, tờ báo đã đình bản vĩnh viễn!

Về tiểu sử của ông hiện nay có khá nhiều thông tin khác nhau. Có người cho rằng, ông người quê ở Cao Lãnh, Đồng Tháp. Nhưng thực tế ông là người Gia Định, sanh trưởng ở làng An Nhơn Xã, quận Gò Vấp. An Nhơn Xã là một làng, giàu có nằm sát bờ rạch Tham Lương giáp với làng Tân Hưng Đông của quận Hóc Môn. Đây là một làng công giáo và có một linh mục được phong thánh. Nơi đây ông có bà vợ đầu tiên và nhà cửa vẫn còn ở đây cho tới khi ông mất vào năm 1925. Ngay cả năm sanh và năm mất của ông cũng rất…lộn xộn!

Người ta cũng đồn đại một câu chuyện khiến ông Cương thêm “nổi tiếng” là vụ ông giúp cháu vợ lên làm vua, đó là vua Thành Thái. Chuyện kể rằng “sau khi vua Đồng Khánh băng hà, Viện Cơ mật triều Nguyễn không dám quyết phải chọn ai kế vị nên phải cử đoàn sang hỏi ý kiến Tòa Khâm sứ. Lúc này, ở Tòa Khâm, ông Diệp Văn Cương đang đảm trách chức vụ Bí thư kiêm thông dịch viên, trực tiếp thông dịch cuộc trao đổi giữa phái đoàn của Cơ mật viện với quan Khâm sứ. Ý các quan ở Cơ mật viện muốn hỏi: Hiện nay vua Ðồng Khánh đã mất, theo quý Khâm sứ thì nên chọn ai kế vị? Ông Diệp Văn Cương lại dịch câu trên thành: “Nay vua Ðồng Khánh đã mất, Lưỡng Tôn cung và Cơ mật viện đã đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân lên nối ngôi, vậy ý kiến của quý Khâm sứ thế nào?”. Nghe vậy quan Khâm sứ đáp: “Nếu Lưỡng Tôn cung và Cơ mật viện đã đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân thì tôi xin tán thành”. Câu này lại được Diệp Văn Cương dịch là: “Theo ý tôi thì các quan Cơ mật nên chọn hoàng tử Bửu Lân là hơn cả”. Vậy là Bửu Lân lên ngôi vua. 

Chuyện không rõ thực hư ra sao nhưng đã giúp cho ông nổi tiếng thêm đối với hòang tộc cũng như trong dân chúng.

Cũng có thông tin ông học tiểu học ở trường D’Adran, một trường do các giáo sĩ Thiên Chúa giáo quản lý. Theo thông lệ, hầu hết học sinh ở trường này trước thế kỷ 20 đều là con em của người theo đạo Thiên Chúa. Ông Cương sanh năm 1865, vào trường học khoảng những năm 1871-1874. Song cho tới nay, không có tài liệu nào cho biết ông có đạo Thiên Chúa hay không, song con ông là ông Diệp Văn Kỳ thì không. Thông thường, những người có đạo thời ấy thường lấy tên thánh làm nickname. Song ông Cương lại không có. Do vậy, việc ông vào học ở trường đạo cũng là một dấu chấm hỏi để cho các nhà nghiên cứu về sau thẩm định thêm. 

Ông Cương không chỉ là thầy giáo nổi tiếng với nhiều học trò giỏi về sau này, mà còn nổi tiếng về nghề báo! Nói nổi tiếng là ông có viết một số bài báo trên các tờ báo đương thời như tờ tuần báo Nam Kỳ. Song nhiều học giả sau này lại phong cho ông là “chủ tờ Phan Yên Báo”, một tờ báo chết yểu sau vài số phát hành. Song đây lại hoàn toàn không phải là sự thật. Sự lầm lẫn của tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng khi viết luận án về lịch sử báo chí quốc ngữ Việt Nam từ 1865-1930, khi ghi nhận “Diệp Văn Cương là chủ tờ Phan Yên Báo ra năm 1883”. Nói lầm là vì năm 1883 ông Cương còn học ở Alger và thời điểm này chưa hề có báo tư nhân xuất hiện ở Sài Gòn. Tờ Phan Yên Báo thật sự ra đời cuối năm 1897 và chết vào đầu năm 1898 sau khi ra được 7 số báo vì nhà cầm quyền thay đổi cách quản lý báo chí. Thời gian này, ông Cương còn là thông ngôn ở Vĩnh Long thì không thể nào làm báo ở Sài Gòn được. Ông chỉ bắt đầu chánh thức làm báo khi được bổ nhiệm làm Chánh tổng tài Gia Định Báo vào đầu thế kỷ 20. 

Vì vậy, nói ông Cương là “nhà báo” thì cũng được bởi ông chỉ làm báo có 2 năm cuối cùng của tờ Gia Định Báo và cũng không làm gì đặc sắc lắm trong thời gian này. Trong nửa cuối thế kỷ 19, ở Sài Gòn chỉ có vài nhà báo được ghi nhân với tên tuổi còn nằm trên các tờ báo lưu trữ. Đó là ông Huỳnh Tịnh Paulus Của, chủ bút đầu tiên của Gia Định Báo, từ năm 1865 đến 1868. Ông Trương Vĩnh Ký, chánh tổng tài tức chủ nhiệm hay tổng biên tập Gia Định Báo, từ 1869 đến 1871. Sau đó ông Vĩnh Ký ra tờ Thông Loại Khóa Trình năm 1888-1889, ra được 18 số thì đình bản vì…nợ nần nhiều quá! Và ông Trương Minh Ký, chủ bút Gia Định Báo từ 1881 đến 1896 và chủ bút tuần báo Nam Kỳ từ 1897 đến 1900. Còn tờ Phan Yên Báo cho tới nay các nhà nghiên cứu báo chí chỉ “nghe nói” chớ chưa ai thấy mặt tờ báo ra sao và cũng không ai biết chủ nhân là ai. Chúng tôi, những người quan tâm đến lịch sử báo chí nước nhà vẫn hy vọng “thấy mặt” được Phan Yên Báo một lần trong đời, song hầu hết các kho lưu trữ báo chí Việt ở các quốc gia khác như Pháp, Hoa Kỳ đều chưa ai tìm ra tờ báo này. Mong rằng Phan Yên Báo chí thất lạc đâu đó chớ không hoàn toàn mất tích! Mong thay!

Ngoài ba ông Của, Vĩnh Ký và Minh Ký cũng có một số người làm báo trong một thời gian ngắn ít người biết như Tôn Thọ Tường, Huỳnh Liễu Mai, Trần Đại Học, Nguyễn Dư Hoài, Nguyễn Khắc Huề…Những người này không trực tiếp làm báo mà chỉ viết cộng tác với các tờ báo mà thôi. 

Như vậy, có thể nói rằng dù muốn hay không, chính sách giáo dục hạn chế của nhà cầm quyền Pháp ở Nam Kỳ đã đạt được ý muốn ban đầu là loại chữ nho ra khỏi đời sống của người Việt và biến chữ quốc ngữ trở thành “quốc ngữ của người Việt”. Cái may mắn của người Việt “bị trị” là được viết, học thứ chữ theo tiếng nói của mình chớ không phải tiếng Pháp hay thứ tiếng nào khác. Để rồi chỉ sau hơn một thế kỷ, chữ quốc ngữ trở thành “tiếng Việt” của người Việt với sức mạnh riêng đồng hành cùng nhiều thứ chữ khác trên trường quốc tế.

(còn tiếp)

undefined
Ông Huỳnh Tịnh Paulus Của

undefined
Ông Trương Vĩnh Ký

Ông Trương Minh Ký (hình ở mộ phần ông tại Gò Vấp)



You may also like

Verified by MonsterInsights