LÊ NGUYỄN
LGT: Điện báo là một trong những thành tựu quan trọng của loài người. Nó thu ngắn những khoảng cách địa lý, truyền tải thông tin trong thời hạn nhanh nhất, giúp người dùng đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết và giải quyết kịp thời những tình huống xấu nhất. Từ những ngày người Sài Gòn chứng kiến đường dây điện báo đầu tiên nối liền hai vùng đất Sài Gòn – Biên Hòa, đã hơn 160 năm trôi qua, không mấy ai nhớ rõ những gì đã diễn ra trong thời khắc xa xưa ấy, song điều chắc chắn là kỹ thuật mới này đã giúp thực dân Pháp đạt nhiều thắng lợi trong việc chống lại các tổ chức kháng chiến Việt Nam vào thập niên 1860.
Với giới trẻ ngày nay, ba chữ “nhà dây thép” chắc vô cùng lạ lẫm, chứ vào những thập niên đầu thế kỷ 20, đó là những từ nằm ở cửa miệng của ông cha ta khi nói đến nơi mà bây giờ chúng ta gọi là bưu điện hay bưu cục. Đi ra bưu điện để gửi thư, họ gọi là ra nhà dây thép, còn để gửi đi một bức điện tín cho bạn bè hay người thân thì họ gọi là “đi gõ dây thép”. Những từ này gợi lên hình ảnh ban sơ của ngành điện báo, khi lần đầu tiên người dân Sài Gòn và các vùng phụ cận nhìn thấy những “dây thép” giăng giăng trên bầu trời.
Ngay sau khi vừa tấn công Sài Gòn năm 1859 và chưa chính thức đặt bộ máy cai trị, thì các đô đốc Pháp đã nghĩ ngay đến việc thiết lập hệ thống điện báo để đảm bảo sự liên lạc thông suốt và nhanh chóng giữa các đơn vị quân viễn chinh với nhau. Nhu cầu này càng bức thiết khi các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân, Thiên Hộ Dương… bùng phát, đặt đội quân viễn chinh Pháp trong tình trạng phải đối phó thường trực.
Ngày 18/3/1860, Đại tá hải quân Pháp D’ariès được cử đến Sài Gòn, và không đầy một tháng sau, cụ thể là ngày 11/4/1860, ông ta thành lập tại thành phố này Phòng Bưu chính đầu tiên của người Pháp tại Đông Dương, được điều hành bởi viên chức ngành thuế.
Không lâu sau, với tư cách Giám đốc Dân sự vụ, D’ariès giao cho Chính sở Điện báo Wattebled nhiệm vụ chỉ huy việc xây dựng các đường dây điện báo trong vùng. Kế hoạch ban đầu là thiết lập trước đường dây điện báo Sài Gòn-Biên Hòa dài 28km, sau đó sẽ kéo dài đến Bà Rịa và Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu).
Theo Lemire, lúc bấy giờ là một viên chức ngành điện báo, sau là Công sứ Pháp ở Đông Dương, đường dây điện báo Sài Gòn – Biên Hòa được người Pháp khánh thành ngày 27/3/1862. Công việc thiết kế và thi công gặp rất nhiều khó khăn do điều kiện vật chất, kỹ thuật vào thời đó. Đường bộ bị chia cách bởi một con kinh cách Sài Gòn 8km và một nhánh sông ở Biên Hòa. Để giải quyết vấn đề này, người Pháp phải khổ công đặt đường dây cáp ngầm ở những chỗ cắt.
18 giờ 30 phút ngày hôm ấy, hai bờ sông Đồng Nai được nối liền, bức điện báo đầu tiên trong lịch sử viễn thông Việt Nam gửi đi từ Biên Hòa nhận được tại Sài Gòn sau 2 phút (Theo L. Malleret trong Tập san hội Cổ học Ấn-Hoa – Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises – năm 1936). Đích thân Lemire cùng một đồng nghiệp đã cầm văn bản này đi gặp Phó Đô đốc Bonard lúc ấy đang ngồi cùng bộ tham mưu.
Tất cả biểu lộ niềm vui mừng lớn lao, Bonard mời hai viên chức này ngồi vào bàn và nâng cốc chúc mừng: ”Này các ông, tôi rất hài lòng về công tác của các ông. Tôi uống mừng sự thành công của ngành điện báo Nam kỳ từ lúc khởi đầu”. Bonard vừa dứt lời, Trưởng ban tham mưu De Laveyssière phụ họa: ”Chính các ông là những người có vinh dự khánh thành đường dây điện báo đầu tiên ở Nam Kỳ”. Đến phiên mình, Lemire đã phát biểu: ”Đây sẽ là một công cụ lớn lao dành cho công tác bình định, và sau nữa, đây là một bước vĩ đại hướng về nền văn minh do thiên tài của nước Pháp mang lại trong vùng đất mới chiếm đóng của ta…” (Tập san Đô thành Hiếu cổ – BAVH số 1 năm 1944-trang 9).
Đường dây điện báo thứ hai dài 7km, nối liền Sài Gòn-Chợ Lớn, khánh thành ngày 17/4/1862. Lúc bấy giờ, việc xây dựng các cơ sở hành chánh đã không được thực hiện một cách suôn sẻ, và văn phòng điện báo cũng chịu chung tình trạng này. Theo Jean Bouchot, tác giả quyển “La naissance et les premières années de Saigon” (Sự ra đời và những năm đầu tiên của thành phố Sài Gòn), văn phòng điện báo lúc bấy giờ chỉ là hai ngôi nhà thấp lợp ngói phẳng nằm giữa một khu vườn được bao quanh bằng một hàng rào tre trúc. Người ta dựng lên ở đó hai cây sào mang tấm bảng với một chữ duy nhất “Télégraphe” (Điện báo). Quảng trường nơi xây dựng trụ sở điện báo đầu tiên thời đó được gọi là “Quảng trường Đồng hồ” (Place de l’Horloge) nằm ở góc đường Catinat và De la Grandière (nay là đường Đồng Khởi và đường Lý Tự Trọng) (BAVH, sđd, trang 10).
Năm 1870, văn phòng điện báo vẫn còn nằm tại Quảng trường Đồng hồ, trên con đường De la Grandière, cùng với Nha Giám đốc Nội vụ (Direction de l’Intérieur), mà báo chí thời đó gọi là “Dinh Thượng thơ”. Không lâu sau, người Pháp phá hủy nhiều nhà cửa nằm trong khu vực này, lấy đất bổ sung cho công trình san lấp con kinh lớn, biến nơi đó thành đại lộ Charner (nay là đường Nguyễn Huệ). Cuộc sống của nhân viên bưu chính và điện báo lúc bấy giờ rất khó khăn, đòi hỏi ở họ một nỗ lực to lớn để tiếp tục thực hiện các dự án đã vạch ra.
Đầu tháng 6 năm 1862, một sự kiện quan trọng diễn ra tại Sài Gòn; đó là lễ ký kết hòa ước Nhâm Tuất ngày 5/6/1862. Sứ bộ Việt Nam đến Sài Gòn, ngoài các vị Chánh, Phó sứ (Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp), còn có ông Phạm Văn Trung, quan lại phụ trách về bưu chính của triều đình Huế. Theo lời Lemire kể lại, nhân dịp này, một phái đoàn trong đó có ông Trung được mời đến thăm trụ sở cơ quan điện báo và người ta đã biểu diễn cho họ xem việc liên lạc giữa Sài Gòn với Biên Hòa và Chợ Lớn. Kết quả làm cho phái đoàn Việt Nam rất ngạc nhiên, có người không tin, nghĩ là họ bị lừa, đã nhìn thử dưới gầm bàn xem có ai ngồi núp ở đó không, nhưng chỉ gặp các hộc tủ trống rỗng…(BAVH – sđd, trang 11).
Năm 1863, Hudot thay thế Wattebled trong cương vị Chánh Sở điện báo. Song lúc bấy giờ, hai cơ quan bưu chính và điện báo lại trực thuộc hai đơn vị khác nhau, bưu chính thuộc Sở Tài chính, còn điện báo thì thuộc Nha Giám đốc Nội vụ.
Ba năm sau (1866), cơ sở điện báo của Pháp tại Sài Gòn bắt đầu phát huy tác dụng trong công tác “bình định” (chống lại các lực lượng nghĩa quân kháng Pháp). Sau cái chết của lãnh tụ nghĩa quân Trương Định tại Gò Công vào năm 1864, cuộc khởi nghĩa của Thiên hộ Võ Duy Dương tại cứ địa Đồng Tháp Mười tiếp tục làm cho thực dân Pháp mất ăn mất ngủ. Địa hình phức tạp của vùng đất mà Pháp gọi là Plaine des Joncs (cánh đồng cây bấc) khiến cho nhiều cuộc hành quân gánh lấy thất bại. Tháng 4.1866, họ mở cuộc hành quân quy mô vào Đồng Tháp Mười và điện báo trở thành công cụ đắc lực nhất giúp Pháp đánh tan lực lượng nghĩa quân, Thiên hộ Dương phải bỏ khu vực này, chạy về phía Bắc và chết trong hành trình trên biển. Tính ra chỉ trong năm ngày năm đêm, tại Đồng Tháp Mười, các đơn vị quân viễn chinh Pháp đã trao đổi với nhau 1.153 bức điện, mỗi bức không dưới 500 từ!
Năm 1869, nhiều dự án được các chuyên gia Pháp thảo ra nhằm thiết lập đường dây điện báo nối liền Sài Gòn-Miến Điện (Birmanie, nay là Myanmar), rồi từ đó, chạy sang Ấn Độ là nước vừa nối liền đường dây điện báo với cả châu Âu. Song dự án này không được sự hậu thuẫn của chính quốc. Paris muốn làm đường cáp ngầm nối với Singapore là nơi vừa kết nối đường dây điện báo với Anh quốc.
Tháng 6 năm 1871, Bộ trưởng Hải quân Pháp ký với công ty China Submarine Telegraph Company một thỏa thuận đặt đường cáp ngầm xuất phát từ cap St Jacques (Vũng Tàu) đến Singapore. Ngày 31/7/1871, bức điện tín đầu tiên được trao đổi giữa chính quốc Pháp và thuộc địa Nam kỳ. Tuy các tài liệu không nêu rõ, song ta có thể ước đoán rằng bức điện trên đã đi theo lộ trình Sài Gòn – Vũng Tàu – Singapore – Anh quốc – Pháp. Vào thời điểm trên, Thống đốc Nam Kỳ, Đề đốc Cornulier-Lucinière, đã không có được niềm vui nhìn thấy công trình do ông khởi xướng trở thành hiện thực; do tình trạng sức khỏe kém, ông ta đã phải quay về Pháp ngày 2/4/1871 (BAVH – sđd, trang 15)
Chỉ trong vòng 10 năm (1862-1872), thực dân Pháp tại miền Nam đã thiết lập 6.600 km đường dây cáp điện báo, thêm 13 đường dưới mặt nước dài tổng cộng 13, 225 km. Năm 1881, Le Myre de Vilers, Thống đốc dân sự đầu tiên của Pháp ở Nam kỳ, giao cho một kỹ sư Pháp nghiên cứu việc thiết lập đường dây điện báo Sài Gòn-Bangkok (Thái Lan) dài 669 km, trong đó có 226 km chạy qua đất Campuchia. Công việc này hoàn tất sau 18 tháng, trong khi người Anh phải bỏ dở sau ba năm nỗ lực.
Năm 1881 cũng là năm chính quyền thuộc địa mở cuộc thi tuyển thư ký điện báo Đông dương đầu tiên. Một năm sau (1882), thời đại mới trong lịch sử bưu chính cũng bắt đầu. Ngành bưu chính được tách rời khỏi Ngân khố và sáp nhập chung với ngành điện báo, trở thành “nhà dây thép” như cách gọi của ông cha ta ngày xưa.