Trần Nhật Vy
Gia Định Báo ra đời tại Sài Gòn vào ngày 15-4-1865 là tờ báo được giới nghiên cứu trong nước dành nhiều sự chú ý từ trước năm 1975. Song khoảng 20 năm trở lại đây, tờ báo này đã được quan tâm nhiều hơn với nhiều công trình nghiên cứu được phổ biến rộng rãi. Nhưng phần lớn các công trình này dành nhiều sự chú ý đến lịch sử ra đời, nội dung và tiến trình phát triển mà ít chú ý đến phần chữ quốc ngữ. Thậm chí, những nghề nghiệp mới mà tờ báo này mang lại cho người Việt đến tận hôm nay cũng chưa được nhận định một cách rõ ràng.
Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên của nước ta và cũng là văn bản chữ quốc ngữ đầu tiên được phổ biến công khai trong nước, ít nhất ở Nam Kỳ. Chữ quốc ngữ là “thứ chữ ghi âm tiếng nói của người Việt bằng mẫu tự latin” là định nghĩa từ cuối thế kỷ 19 cho tới nay vẫn chưa có định nghĩa khác. Vì vậy, chữ quốc ngữ trên Gia Định Báo là một phần rất quan trọng trong việc phát triển “tiếng Việt” của người Việt.
Chữ quốc ngữ trên Gia Định Báo chính là phản ánh tiếng nói của người Việt nơi tờ báo ra đời, đó là Sài Gòn, là Nam Kỳ nay được kêu là Nam Bộ.
Không thể phủ nhận rằng, chữ quốc ngữ được hình thành và hoài thai ở miền Trung, miền Bắc và ra đời cùng lớn lên ở Nam Kỳ. Tính tới nay chữ quốc ngữ chính thức ra đời được 160 năm chẵn. Song cho tới nay, có rất ít sự quan tâm dành cho sự ra đời này. Các nhà “tinh hoa” của đất nước thường dành nhiều sự quan tâm cho năm 1919, thời điểm vua nhà Nguyễn có văn bản chấm dứt việc thi cử bằng chữ Hán ở hai miền Trung và Bắc; đồng thời cho rằng đây mới chính là thời điểm mà chữ quốc ngữ phổ biến ở Việt Nam. Trong khi đó, kỳ thi hương cuối cùng, kỳ thi bằng chữ Hán, ở Nam Kỳ đã chấm dứt từ năm 1864!
Mặt khác, từ cuối thế kỷ 19, chữ quốc ngữ đã phổ biến ở miền Bắc với một số trường học do nhà cầm quyền Pháp tổ chức. Về báo chí chữ quốc ngữ ở miền Bắc Đại Việt Tân Báo là tờ báo quốc ngữ đầu tiên xuất bản ở Bắc Kỳ năm 1905, rồi tờ Đăng Cổ Tùng Báo là diễn đàn kêu gọi canh tân của biên tập viên trẻ Nguyễn Văn Vĩnh và cơ quan ngôn luận của hội “Đông Kinh Nghĩa Thục” (3-11/1907). Năm 1913, phụ san của tờ Lục Tỉnh Tân Văn ở Sài Gòn là tờ Đông Dương Tạp Chí cũng được phát hành ở miền Bắc với chủ bút là ông Nguyễn Văn Vĩnh. Những sự kiện này cho thấy chữ quốc ngữ đã phổ biến ở Bắc kỳ từ trước năm 1919, trước khi vua nhà Nguyễn ký quyết định chấm dứt các kỳ thi bằng chữ Hán.
Chữ quốc ngữ trên Gia Định Báo trong hơn 40 năm tồn tại (1865-1910) chính là thứ chữ của người miền Nam sáng tạo rất phong phú cả chữ lẫn nghĩa rất cần được bảo tồn và nghiên cứu đúng mực, điều mà cho tới nay vẫn chưa ai thực hiện một cách nghiêm túc.
Ai cũng hiểu rằng, sau 1000 năm bị Trung Hoa đô hộ và gần 4000 năm người Việt buộc phải học, viết và nói tiếng Tàu, thì mức ảnh hưởng của tiếng Tàu đến tiếng nói của người Việt là rất lớn. Cho tới tận ngày nay, trong tiếng Việt vẫn còn rất nhiều âm tiếng Tàu mà người Việt dù rất cố gắng sửa đổi vẫn không thể làm được.
Với điều kiện ở “rất xa” Trung Hoa, tiếp xúc với nhiều dân tộc khác và điều kiện giao lưu rộng rãi hơn trong đời sống cũng như mua bán, người Việt ở phương Nam của đất nước trong hơn 600 năm, kể từ đầu thế kỷ 17, đã Việt hóa được khá nhiều tiếng Tàu, một điều chưa được các nhà nghiên cứu ghi nhận. Kể từ khi vua Lê Thánh Tôn mở rộng bờ cõi đến Bình Định, rồi các vua, chúa nhà Nguyễn mở rộng đất nước đến mũi Cà Mau, thì tiếng Việt đã khác nhiều so với thời kỳ Bắc thuộc cũng như các ảnh hưởng của Trung Hoa.
Và chữ quốc ngữ trên Gia Định Báo chính là phản ánh tiếng nói của người Việt trong suốt thời kỳ mở rộng đất nước. Tiền nhân của chúng ta nhiều đời, qua nhiều giai đoạn, qua nhiều tiếp xúc với nhiều dân tộc đã mạnh tay Việt hóa để nhiều thứ tiếng của các dân tộc trở thành tiếng nói riêng của người Việt. Có thể nói rằng, chính 600 năm ấy, tiếng Việt thuần Việt đã trở thành “kho báu” của người Việt và cần được con cháu đời sau gìn giữ một cách cẩn trọng. Nhưng vài chục năm nay, tiếng Thuần Việt bỗng nhiên “bị mất tích” và tiếng Hán lại tràn lan trong giáo dục, trên sách báo trong nước. Đó là điều rất đáng lo!
Gia Định Báo ra đời có tác động mới và mạnh đối với xã hội Việt Nam đương thời ở hai mặt: Xã hội và chữ nghĩa.
Về mặt xã hội, tờ báo mở đầu cho nhiều nghề mới, những nghề chưa hề có trong xã hội Việt trong suốt hàng ngàn năm trước đó. Nếu trong xã hội trước đó trong dân gian chỉ có 4 nghề là “sĩ, nông, công thương” thì nay xuất hiện thêm các nghề mới. Đó là nghề viết báo, nghề in báo, nghề phát hành báo [đặc biệt là bán báo dạo] và nghề viết văn.
Từ Gia Định Báo trở về sau, từ một hạt giống nhỏ nhoi do người Pháp gieo xuống đất Sài Gòn năm 1865, những nghề liên quan tới báo chí sẽ nở rộ và lớn mạnh trong thế kỷ 20 tới mức không thế lực nào cản nổi. Sự lớn mạnh ấy cùng với xu thế của thế giới, nghề báo trở thành một “thế lực” trong thế kỷ 20 được mọi người tặng cho mỹ danh “quyền lực thứ tư,” quyền lực đứng sau quyền lực của nhà nước là quốc hội, hành chánh và tòa án.
Đó là các quyền:
- Quyền được thông tin và cung cấp thông tin: Báo chí có quyền và nghĩa vụ thu thập, xác minh và phổ biến thông tin mà công chúng muốn và cần biết.
- Quyền phản biện và tự do ngôn luận của báo chí: Báo chí có quyền diễn đạt ý kiến, phê bình chính quyền, tổ chức và các lực lượng xã hội mà không sợ bị trừng phạt hoặc kiểm duyệt trước.
- Quyền độc lập nghề nghiệp: Nhân viên báo chí được phép làm việc độc lập với sự can thiệp từ các thế lực khác (nhà nước, doanh nghiệp, nhóm lợi ích) để đảm bảo tính khách quan và trung thực.
- Quyền bảo vệ nguồn tin: Nhà báo có thể giữ kín nguồn tin nhạy cảm khi cần thiết để bảo vệ an toàn và sự hợp tác của nguồn tin.
- Trách nhiệm xã hội và chuẩn mực đạo đức: Báo chí phải tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp như accuracy (độ chính xác), fairness (công bằng), transparency (minh bạch), tránh thù địch và ngụy biện; bảo vệ quyền riêng tư và đặc biệt với các đối tượng dễ bị tổn thương.
- Tự do tiếp cận và phổ biến thông tin công khai: Thúc đẩy sự minh bạch của cơ quan nhà nước và công ty, đồng thời đảm bảo công dân có quyền tra cứu, nhận xét và tham gia vào quá trình công khai thông tin.
- Kiểm soát và cân bằng quyền lực: Báo chí đóng vai trò “phanh và cân bằng” trong hệ thống chính trị, giúp phát hiện tham nhũng, lạm dụng quyền lực và sai phạm.
- Bảo vệ an toàn cho phóng viên và quyền bảo vệ nhân chứng: Đảm bảo phóng viên được bảo vệ khi đưa tin về nhạy cảm hoặc nguy hiểm.
Trong thế kỷ 20, quyền lực này lớn đến nỗi nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia tự do nhất, phải tìm cách hạn chế thậm chí trấn áp những người làm và viết báo. Các quốc gia còn tung ra những bộ luật báo chí mới có nội dung khác rất xa với Luật báo chí 1881, luật tự do báo chí tuyệt đối của Pháp, nhằm hạn chế, cầm chân và tạo những barie không cho báo chí bước vào.
Sự xuất hiện của báo chí cũng tạo thêm một lực lượng lao động động đảo gắn bó với nghề báo mà mãi đến nay, hai thập niên đầu thế kỷ 21, vẫn còn rất đông đảo.
Mặt khác, Gia Định Báo còn là bản ghi chép trung thực về xã hội, đời sống, cùng các hoạt động khác của con người trong thế kỷ 19. Đây là tài liệu gốc dành cho các nhà xã hội học muốn tìm hiểu, muốn biết, muốn có tài liệu khi nghiên cứu về thế kỷ 19, ít nhất là vài chục năm cuối của thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Gia Định Báo cũng là văn bản chữ quốc ngữ đầu tiên phổ biến rộng rãi trong công chúng, trước nhất là ở Nam Kỳ và sau đó là toàn quốc. Không chỉ vậy, tờ báo còn là nơi “Việt hóa” và công bố các “chữ mới” từ những hoạt động trong xã hội. Ví dụ như các chữ “hội chợ,” “xe lửa,” “hát xiệc,” “xe hơi,” “xe tramway,” “đường rầy,” “trường đua,” “đua ngựa,” “xe đò,” “cải lương,” “chích ngừa,” “năng,” “đò,” “tài xỉu,” “mình,” “mình ên,” “chà và,” “ma ní”… là những chữ hoàn toàn mới đối với người Việt trong thế kỷ 19 lâu nay họ chỉ nghe chớ chưa từng thấy mặt chữ. Sự Việt hóa từ nhiều ngôn ngữ khác cũng tốn nhiều công sức của tiền nhân, cũng ráo mồ hôi sôi nước mắt qua nhiều năm tháng mới hình thành rồi công bố và phổ biến trên báo. Đây có thể coi là nỗ lực “thoát Trung” của lưu dân.
Nếu thời của giáo sĩ Bá Đa Lộc những năm 1772-1773, chữ quốc ngữ được ông ghi nhận trong tự điển Annam-Latin chỉ có khoảng 20 ngàn chữ thì tới nay con số đã lớn gấp năm lần. Và trong những thập niên cuối thế kỷ 19, số chữ quốc mà ông Huỳnh Tịnh Paulus Của ghi nhận cũng đã hơn 50 ngàn chữ. Trong số những chữ này, phần lớn xuất phát từ báo chí mà công đầu chính là tờ Gia Định Báo.
Ta hãy đọc một vài đoạn tin từ Gia Định Báo vào tháng Tư năm 1866:
“có một cái máy đào rạch sắp mới rồi, bây giờ đem xuống Bến Lức mà đào các nơi giáp nước cho sâu cho các ghe buôn bán được đi lại cho dễ hơn; bây giờ sắm sửa làm cái khác rồi đem đến Tắt Vũng Gù mà đào kinh ấy.” “Ở Mỹ Tho có tin về nói truyện thằng ăn trộm bợm kia rất gan dạ; là trong đêm mùng sáu nói vào nhà ông coi dây thép mà lấy một cái hòm lớn, trong hòm ấy tính lại được 2130 quan, có một thoi vàng giá đáng 600 trăm quan bạc đồng gói trong bao vải, còn vàng thì còn dấu đen rõ trên mặt. Cái rương thì nó đem ra cữa sổ giường ông ấy nằm, sau người ta tìm được cái rương ấy ở trong thành gần sở làm việc, mà không còn gì trong ấy. Nó lấy cuốc trong kho mà cạy ống khóa.”
Hoặc “Có thơ ở Thủ Dầu Một nói truyện cháy nhà.
Ở làng Phú Cường cháy nhà, sự rủi này bởi người ta vô ý không ra sức giữ cho cẩn thận dầu mà người ta hết sức chữa bỡi nhà ấy có nhiều đậu phụng và dầu, cho nên khi cháy hết cả và nhà không chữa đặng, người ta ra sức chữa những nhà ở xung quanh, và bỡi vì nhà ấy ở cách xa những nhà khác nên làng không phải thiệt hại là bao nhiêu.”
Ngày nay, đọc đoạn văn này rất nhiều người sẽ không hiểu hết ý, đặc biệt là lớp trẻ và người ở miền ngoài. Chữ “sắp mới rồi” có nghĩa là “đã sửa xong,” chữ “sắm sửa” là “chuẩn bị,” còn “tắt Vũng Gù” là tên một con rạch ở Long An. Còn chữ “bợm” nghĩa là “người ấy, hắn ta, nó,” “coi dây thép” là người phụ trách bưu điện…
Trong đoạn trích này cho thấy, thuở ban đầu chữ quốc ngữ viết còn “nặng chất ghi theo tiếng nói” nên dấu chấm câu không chuẩn theo văn phạm hiện nay. Các dấu hỏi, ngã cũng tùy tiện như chữ “cửa” viết là “cữa”, “bởi” viết là “bỡi”, thường lẫn lộn giữa âm “d” và gi”… do phát âm của người Sài Gòn nhẹ hơn không nhấn nhá như người miền Bắc. Cho tới nay, rất nhiều người viết báo là người ở miền Nam vẫn còn mắc những lỗi dấu hỏi, ngã và đó cũng là chuyện bình thường!
Một số chữ thời ấy nay ít hoặc đã bị “chết” như “giáp nước” nghĩa là “chỗ hai mối nước đụng nhau” [theo Đại Nam quấc âm tự vị 1895], hoặc “rạch” là những “con sông nhỏ tự nhiên mà có” đang bị xóa sổ dần và thay bằng chữ “kênh” một cách tùy tiện! Chữ “bợm” với nghĩa là “hắn, tên ấy” đã không còn trong văn tự ngày nay. Chữ “dầu, dẫu mà” cũng đã trở thành tử ngữ từ lâu khi bị thay bằng chữ “dù,” “dù rằng!”

Những sai lầm này đã được khắc phục lần lần vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
“Các người thiếu thuế thành phố Chợ Lớn đặng hay: những bộ trong tháng avril 1895 (thuế đất, thuế sanh ý, thuế ghe biển, thuế ghe sông, thuế thân, cùng công sưu) lập theo phép bồi giao cho quan kho bạc Chợ Lớn thâu. Bởi vậy ai nấy phải y theo hạn luật dạy mà đóng các món thuế biên trong sổ, bằng không thì phải cứ phép mà đòi…Saigon, ngày mồng 9 mai 1895.”
Đây là thông báo “thúc thuế” ở Chợ Lớn năm 1895. Thông báo này ngoài nội dung thì chữ quốc ngữ đã có phần “mới” hơn năm 1866. Dấu chấm câu tốt hơn và dấu hỏi ngã cũng tương đối khá.
Điều đó cho thấy việc điều chỉnh chữ quốc ngữ ngay trên tờ Gia Định Báo cũng lần lần được cải tiến bên cạnh việc tung ra các chữ mới mà trước đó chưa có hoặc không thấy trong các văn bản khác.
Mặt khác, từ năm 1881 trở đi, trên tờ báo xuất hiện một cách “đều đặn” những tiểu thuyết văn xuôi, truyện thơ cùng truyện ngắn, những slogan quảng cáo…
(còn tiếp)
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/

