LÝ THÀNH PHƯƠNG
Như đã đề cập trong bài “Văn học Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc,” văn học Việt Nam trong thời kỳ bị trị, phần lớn là văn chương bình dân truyền khẩu. Trong bối cảnh đó, mặc dù trải qua cả ngàn năm, tổng cộng những sáng tác văn viết bằng tiếng Hán không có gì đặc thù và chỉ đếm được bằng đầu các ngón tay.
Thời kỳ lập quốc có thể nói bắt đầu từ triều Ngô – Đinh. Nhưng cả hai triều đại này, ngoài những vần sấm thi, thì dưới triều Ngô văn học viết vẫn còn trong thời kỳ phôi thai, ngoài lời bàn của Ngô Quyền về kế sách phá Hoằng Thao, chưa đủ tiêu chí là một tác phẩm văn học thành văn; triều Đinh cũng chưa thấy gì thêm, ngoài lời sấm “Đỗ Thích thí Đinh Đinh.”
Văn học Việt Nam thời Tiền Lê được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam để phân biệt với văn học dân gian, bình dân truyền khẩu đã ra đời rất lâu trước đó. Thời điểm này có thể xem như khởi điểm của một nền văn học chính thống của một quốc gia đã giành được độc lập tự chủ để phân biệt với văn học của một bộ phận quan lại cai trị trên đất Việt thời Bắc thuộc trước đó.
Bối cảnh lịch sử
Theo các sách sử của Việt Nam thì cách gọi nhà Tiền Lê là để phân biệt với một triều đại nhà Lê khác sau này gọi là nhà Hậu Lê. Nhà Tiền Lê bắt đầu bằng Lê Hoàn khi tiếp nhận ngôi vua vào năm 980 sau khi nhà Đinh chấm dứt.
Ngay khi lên ngôi, Lê Hoàn phải đối mặt với việc nhà Tống xâm lược nước ta. Chiến thắng quân Tống năm 981 đánh dấu sự khẳng định chủ quyền và vị thế của quốc gia Đại Cồ Việt. Chiến thắng đó không chỉ có ý nghĩa quân sự, mà còn thổi bùng ý thức tự hào dân tộc, trở thành tiền đề để văn học bắt đầu tìm lại giọng nói riêng.
Trong tinh thần đó, bắt đầu xuất hiện các tác phẩm nổi tiếng có đề tên tác giả người Việt. Hai áng thơ chính luận, hai kiệt tác không tiền khoáng hậu Nam quốc sơn hà và Quốc tộ đều là tác phẩm mở đầu cho dòng văn học trung đại, đều là sự khai sáng của tinh thần yêu nước và tinh thần nhân đạo, những truyền thống lớn của văn hóa, văn học dân tộc.
Nam quốc sơn hà có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, còn Quốc tộ có giá trị như một bản tuyên ngôn hòa bình. Hai kiệt tác văn chương xuất hiện ở giai đoạn đầu tiên của nền văn học dân tộc Việt Nam.
Vai trò của Phật giáo trong văn học nhà Tiền Lê
Trong xã hội thời ấy, Phật giáo là hệ tư tưởng chính, ăn sâu trong đời sống nhân dân. Nhiều vị thiền sư không chỉ tu hành mà còn tham gia bàn chính sự, làm cố vấn cho vua, và giữ vai trò cầu nối giữa triều đình và dân chúng. Nhờ vậy, họ trở thành những người sáng tác văn chương tiêu biểu nhất thời kỳ này.
Đặc điểm
Chữ Hán được dùng trong sinh hoạt văn hóa của người Việt. Các tác giả đều là những thiền sư học cao hiểu rộng như Pháp Thuận, Khuông Việt, và sư Vạn Hạnh. Những vị thiền sư này là những cố vấn cho vua và triều đình. Nội dung văn học xoay quanh tinh thần yêu nước, bang giao, triết lý nhân sinh, và lý tưởng thái bình. Về hình thức thì bao gồm thơ kệ, văn tế, thơ bang giao, thơ ngụ ngôn qua sấm.
Văn học thời Tiền Lê chưa phong phú về số lượng, nhưng mang giá trị mở đầu, như “viên gạch nền” xây dựng truyền thống văn học dân tộc.
Thơ văn thời này, ngoài một số bài thơ – kệ của các Thiền sư, thấy có ba chủ đề, đề tài nổi bật:
- Thơ sấm,
- Văn chương bang giao,
- Văn học yêu nước.
Các tác phẩm tiêu biểu
1. Thơ sấm
Sấm được xem như một nét sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo của cộng đồng vào thời điểm đó. Sấm thời này là sản phẩm của thiền sư, đạo sĩ, nho giả, mỗi người đều có ý đồ riêng khi tung ra những lời sấm, mỗi người đều có phần hiếu sự khi mượn lời thần bí báo trước sự cố cho rằng có ý nghĩa đổi đời sẽ xảy ra, nhưng phần chắc lại là khẳng định những biến cố đã xuất hiện.
Câu sấm vào loại sớm thời này là:
Đỗ Thích thí Đinh Đinh
Lê gia xuất Thánh minh
Cạnh tranh đa hoanh tử
Đạo lộ tuyệt nhân hành
Dịch là:
Đỗ Thích giết hai Đinh
Nhà Lê sinh Thánh minh
Ganh đua bao kẻ chết
Đường đi người vắng tanh.
Một nhân vật nổi tiếng thời đó là Thiền sư Vạn Hạnh. Lời ông ấy nói ra, thiên hạ đều coi như lời sấm,” như một bài thơ báo trước Nhà Lý sẽ thay Nhà Tiền Lê như sau:
Tật lê trầm Bắc thủy
Lý tử thu Nam thiên
Tứ phương can qua tĩnh
Bát biểu hạ bình yên
Dịch là:
Cây tật lê (tức nhà Lê) chìm biển Bắc
Cây lý (tức nhà Lý) mọc trời Nam
Bốn phương binh đao lặng
Tám cõi được bình an.
2. Văn chương bang giao
Văn học bang giao thời này mở đầu bằng một giai thoại Lý Giác, sứ thần nhà Tống sang ta năm 987, bẻ bai hai câu thơ trong bài Vịnh nga của Lạc Tân Vương, để đùa anh lái đò Pháp Thuận (Thiền sư Pháp Thuận lúc đó giả làm anh lái đò):
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diên hướng thiên nha
Dịch là:
Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
Chân trời nghển cổ trông
Không ngờ, anh lái đò ung dung ngâm tiếp, cũng cải biên đôi chữ, cho trọn vẹn áng thơ hay của Lạc Tân Vương thần đồng Đường thi, khi mười tuổi:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trao bãi thanh ba
Dịch là:
Lông trắng phơi nước biếc
Sóng xanh quậy chèo hồng
Thâm ý của Lý sứ thần “điển nhã” đến vậy, mà vẫn bị chú lái đò ngang “bắt bài” bằng tinh thần vô tốn (không thua kém) tri thức văn hóa chung ở các nước đồng văn trong vùng.
Khác với vẻ đẹp nên thơ của một thi thoại, bài thơ lưu biệt của Lý Giác tặng Pháp Thuần (lần này thì với tư cách pháp sư cố vấn của triều đình) đã có sắc thái chính trị. Pháp Thuần đem thơ này dâng vua. Vua cho Thiền sư Khuông Việt xem. Khuông Việt nói: “Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đó chính là lời thơ ở hai câu kết:
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tỉnh kiến thiền thu
Dịch là:
Ngoài trời lại có trời nên chiếu
Sóng lặng khe đầm, bóng nguyệt thâu
Đến khi Giác ra về cùng năm 987, Khuông Việt làm bài từ theo điệu Vương lang quy để đưa tiễn, theo lệnh Lê Hoàn.
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang,
Cửu thiên quy lộ trường.
Tình thảm thiết,
Đối ly trường,
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh tấu ngã hoàng.
Dịch là:
Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương,
Xa ngóng thần tiên lại đế hương.
Muôn dặm sóng xanh vượt trùng dương,
Trời xa về đường trường!
Tình thảm thiết,
Chén đưa đường,
Vin xe sứ giả vấn vương
Xin đem thân ý vì Nam cương
Tâu rõ cùng thánh hoàng.
Khuông Việt là người đại diện trí tuệ Việt Nam trong quan hệ với các nước phương Bắc.
Bài từ “Vương lang quy” ông sáng tác để tiễn sứ Tống, vừa mềm mại, lịch lãm, lại thể hiện được bản lĩnh văn hóa ngang hàng, không thấp kém. Qua đó cho thấy văn học Tiền Lê không chỉ chiến đấu bằng gươm giáo, mà còn bảo vệ độc lập bằng trí tuệ và thái độ ứng xử khéo léo.
3. Văn học yêu nước
Nam quốc sơn hà
Được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Ý nghĩa:
Khẳng định chủ quyền: Sông núi nước Nam thuộc về người Nam.
Cơ sở chính nghĩa: Điều ấy “trời định,” không ai được phép xâm phạm.
Tinh thần chiến đấu: Kẻ xâm lược sẽ thất bại thảm hại.
Bài thơ vang lên giữa chiến trận, tạo lực mạnh tinh thần, củng cố niềm tin chiến thắng.
Bàn về tác giả và thời điểm sáng tác của bài thơ này thì vì sử gia Ngô Sĩ Liên chép bài thơ này vào kỷ nhà Lý, nên có người thời sau cho rằng bài thơ này là do Lý Thường Kiệt sáng tác. Nhưng căn cứ những truyền thuyết, thần tích được ghi chép lại liên quan đến bài Nam quốc sơn hà, một số nhà nghiên cứu khẳng định rằng bài thơ này đã xuất hiện vào đầu thời kỳ tự chủ tức là thời Ngô – Đinh. Những nghiên cứu gần đây của nhiều học giả, với những giả thuyết có tính thuyết phục nhất, thì có lẽ tác phẩm này được sáng tác vào thời vua Lê Đại Hành. Đó là lý do tại sao chúng tôi sắp xếp tác phẩm văn học này vào thời kỳ Tiền Lê là như vậy.
Quốc tộ
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
Giải nghĩa và phân tích:
Vận nước như dây mây quấn bền chặt: khẳng định nền độc lập đã vững
Trời Nam mở thời thái bình: định hướng trị quốc lâu dài
Vua dùng đức trị dân, giản lược hình pháp: đề cao sự nhân ái trong cai trị
Khắp nơi không còn chiến tranh: đó là mục tiêu tối thượng của quốc gia
Tác giả của bài thơ này là Thiền sư Pháp Thuận (915–990), một trong những trí thức lớn thời Lê Đại Hành. Ông vừa làm công tác cố vấn chính trị, vừa nghiên cứu đạo lý, lại có khả năng dự đoán thời thế.
Bài thơ không chỉ trả lời về vận nước, mà còn đưa ra tư tưởng trị quốc nhân nghĩa: muốn đất nước bền vững thì vua phải trị nước khoan hòa, đặt lòng dân làm gốc. Đây là quan điểm tiến bộ, mang giá trị văn hóa – chính trị sâu sắc.
Kết luận
Thời Tiền Lê tuy chỉ kéo dài chưa đầy ba thập niên, nhưng lại là thời điểm mà ý thức dân tộc và tinh thần chủ quyền được khẳng định mạnh mẽ nhất bằng ngôn từ. Từ đây, văn học Việt Nam thực sự chuyển mình từ truyền miệng sang thành văn, và mang tiếng nói của một đất nước độc lập, không còn vay mượn hoặc phụ thuộc vào tư tưởng ngoại lai.
Điều đáng chú ý là những tiếng nói văn chương đầu tiên này không đến từ những nhà thơ cung đình, mà lại xuất phát từ các thiền sư – những người vừa tu hành, vừa học rộng, biết suy xét thời thế và trực tiếp tham gia công việc chính trị. Họ không chỉ viết để ca vịnh cảnh đẹp, mà viết để bảo vệ đất nước, để khuyên vua trị nước, để củng cố lòng dân.
Vì thế, văn học thời Tiền Lê mang trong mình khí chất vừa trí tuệ, vừa kiên cường, vừa sâu lắng, và là nền tảng tinh thần của văn học trung đại Việt Nam. Đây chính là cội nguồn sâu xa làm nên truyền thống văn học yêu nước trong lịch sử Việt Nam.
Lý Thành Phương
(sưu tập và biên tập lại)
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/i-to-p/ly-thanh-phuong/
____________________
Đừng hỏi tại sao sàn ướt
Giới chuyên gia về hôn nhân thường khuyên những bà vợ: “Muốn giữ hạnh phúc, hãy học cách… giả vờ không thấy.”
Điển hình: khi chồng tình nguyện rửa chén là lúc anh ta bày tỏ tình yêu, chứ không phải kỹ năng nội trợ. Vì thế, sàn ướt, chén úp ngược, xà bông tràn, không hẳn phải lỗi, mà là… minh chứng của nỗ lực.
Mẹo vặt dành cho vợ: thay vì càm ràm, các bà nên nói “Cảm ơn anh, bữa nay bếp thơm mùi sạch sẽ ghê!” — rồi âm thầm lau sàn sau. Kết quả: chồng sẽ tiếp tục “giúp,” còn bạn có thêm lý do để cười.
Nếu vẫn lo, hãy đặt một chiếc khăn lớn dưới bồn rửa và dán tờ giấy “Đây không phải hồ bơi.” Hài hước là liều thuốc tốt nhất cho hôn nhân, và cũng là cách duy nhất để sàn khô nhanh hơn lời phàn nàn.

