TRẦN NHẬT VY
Quyết định từ năm 1861, nhưng để chữ quốc ngữ trở nên phổ biến trong dân chúng Nam Kỳ, nhà cầm quyền thực dân phải tốn khá nhiều công phu. Một trong những cách phổ biến nhanh nhất chính là tổ chức trường học. Theo nhà nghiên cứu Milton Osborne, mục tiêu lớn mà Pháp quyết thực hiện là nhằm “Loại bỏ chữ Nho ra khỏi đời sống của dân chúng” [Milton Osborne, Giáo dục và chữ quốc ngữ, sự phát triển một trật tự mới, Ngô Bắc dịch, Gió O.com], một trong những chủ trương chính yếu do giáo sĩ Puginier đề xuất.
Ở miền Đông Nam Kỳ từ năm 1862 đến 1866 có các trường học lớn như sau: Trường D’Adran, trường Thuộc Địa, trường Chợ Lớn, trường Nữ công và trường Mỹ Tho.
Trường D’Adran do giáo sĩ Puginier thành lập năm 1860 tại địa điểm nay là trường Trưng Vương và Võ Trường Toản trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Ban đầu thành lập trường với mục đích đào tạo giáo sĩ, dạy cả tiếng Pháp lẫn chữ quốc ngữ. Xin nói rõ, giáo sĩ Puginier là người rất cực đoan, có tinh thần thực dân rất cao. Ông là người có chủ trương “Loại bỏ chữ Nho, Thiên chúa giáo hóa tất cả dân chúng trong vùng Pháp chiếm và phổ biến chữ quốc ngữ.” Vì vậy, trong thời gian ngắn tạm trú ở Sài Gòn trước khi ra phụ trách Tây Đàng Ngoài tức miền Bắc nước ta, ông là linh mục người Pháp ít ỏi ở Sài Gòn và được người phụ trách Giáo phận Sài Gòn khi đó tin dùng. Dù còn rất trẻ, sau khi tới Sài Gòn ông đã được giao nhiệm vụ phụ trách Tiểu chủng viện Sài Gòn và một giáo khu rộng từ Thị Nghè đến hết quận Gò Vấp. Và trong thời gian ngắn ông đã thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây, dạy chữ cho nhiều giáo dân, đồng thời thành lập trường D’Adran. Một trong những học trò của ông khá nổi tiếng cuối thế kỷ 19 là Đốc phủ Trần Tử Ca, chủ quận Hóc Môn.
Trường D’Adran từ năm 1862 trở đi, là trường tiểu học “tư thục” do các giáo sĩ Hội thừa sai Paris phụ trách. Đến năm 1882, trường bán cho nhà cầm quyền Pháp với giá 50 ngàn đồng Đông Dương, khoảng 200 ngàn franc. Pháp đã lấy nơi này làm Nha Học chánh Nam Kỳ và một phần làm trường học. Còn các thầy giáo của trường nguyên là các giáo sĩ, thì dời về trường Taberd, thành lập năm 1874 và tồn tại cho tới năm 1975.
Trường Thuộc Địa thành lập vào tháng năm 1862 trong đất của chùa Khải Tường, kế bên doanh trại của quân Pháp.
Khải Tường là ngôi chùa được cho là lớn nhất Lục tỉnh thời bấy giờ. Đây là nơi hoàng tử Đảm sanh ra trong thời gian Nguyễn Ánh xây thành Gia Định, sau này là vua Minh Mạng. Sau khi lên ngôi, chùa được Minh Mạng cho xây lại rất lớn với một bức tượng Phật bằng gỗ lớn, hiện tượng vẫn còn được giữ trong bảo tàng lịch sử Sài Gòn. Sau khi đánh hạ thành Gia Định năm 1859, Pháp đã biến ngôi chùa này thành một doanh trại quân đội và đặt súng đại bác ở đây.
Do diện tích đất của chùa rất rộng, ước tính ngày nay khuôn viên chùa nằm trong các con đường Nguyễn Đình Chiểu Trần Quốc Thảo Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Thị Minh Khai. Một phần sân hông dinh Độc Lập có thể là đất của chùa này xưa kia. Sau khi ổn định Nam Kỳ, Pháp đã dùng một phần đất chùa làm trường học, một phần làm doanh trại Hiến Binh. Sau năm 1945, ngoài phần đất làm trường học, đất của chùa này chia làm nhiều phần, trong đó có ngân hàng của Anh, còn phần doanh trại là chùa chính khi xưa thì trở thành một bệnh viện tư của bà Henriette Bùi, con gái của ông Bùi Quang Chiêu, là nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam. Bệnh viện này sau năm 1954 được hiến cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và trở thành Đại học Y khoa Sài Gòn. Ngày nay, trường đại học xưa đã trở thành Bảo tàng chứng tích chiến tranh nằm trên đường Võ Văn Tần.
Năm 1862, để phổ biến chữ quốc ngữ, Pháp đã “khai hai trường học, một cái đặng lập ra thông ngôn langsa, cái kia để dạy cho trẻ con annam học tiếng langsa,” theo Alfred Schreiner [Schreiner, Đại Nam quốc lược sử, Nguyễn Văn Nhàn dịch ra tiếng Việt, Saigon 1906, trang 340]. Chú ý, ông Schreiner chính là người sau này thành lập tờ tuần báo Nam Kỳ 1897-1900 ở Sài Gòn. Kêu là hai trường nhưng thực chất đều nằm chung một địa điểm và nay là trường Lê Quý Đôn.
Ban đầu, trường chỉ là một hai dãy nhà lá làm lớp học và dãy nhà dành cho học sinh nội trú. Sách học thì Thống đốc Nam Kỳ khi ấy là Charner phải cho “in cuốn tự vị langsa-annam, bên tiếng annam thì viết bằng chữ quốc ngữ, bởi thứ chữ này ở Saigon không có nên người dạy in sách đó bên Thiên Trước” [Schreiner, sách đã dẫn]. Thiên Trước là cách đọc xưa của chữ Thiên Trúc tức Ấn Độ ngày nay. Ở quốc gia này, Pháp có một nhượng địa từ thế kỷ 16,17.
Trường Thuộc Địa thường được gọi là trường Thông Ngôn, do “Cha Croc cai, là một thầy tu hay chìu lòng thiên hạ lắm, người biết tiếng annam” [Schreiner]. Còn học trò của trường thì “ròng quân binh mà thôi.” Đây cũng là lực lượng thông ngôn “tin cậy” của người Pháp thuở ban đầu dùng để tiếp xúc với dân chúng bản địa. Schreiner cũng trích của Pallu [tác giả sách Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861], người trực tiếp dự trận chiến hạ Đại đồn Chí Hòa rằng “Sự bất thông tiếng nói [giữa người Pháp và người Việt] đã làm cho bối rối mọi việc cùng hóa sinh nhiều điều hư hốt.” Không rõ ông trích từ phần nào, trang nào chúng tôi cố tra nhưng chưa tìm thấy. Chính vì vậy, khi quyết định dùng chữ quốc ngữ tại Nam Kỳ ngày sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, người Pháp đã nhanh chóng tìm cách dạy cho một số người Pháp biết tiếng Việt. Và trường Thông Ngôn được thành lập ngay đời Thống đốc Nam Kỳ thứ 2 là Tướng Charner.
Ban đầu trường chỉ dạy cho những binh lính và sĩ quan Pháp có khả năng học ngoại ngữ để làm thông ngôn. Khoảng 4 năm sau thì bắt đầu có những người Việt làm việc cho Pháp được học và trường đổi tên là trường Bổn Quốc. Lúc này, nhiệm vụ của trường không chỉ đào tạo thông ngôn mà còn đào tạo cả thầy giáo dạy quốc ngữ và tiếng Pháp. Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ thì số lượng thông ngôn và thầy dạy học nhiều hơn nên trường bắt đầu tuyển sinh nhiều hơn từ các làng xã.
Năm 1874, trường được xây dựng khang trang như ngày nay, hoàn thành vào năm 1877 và lấy tên là Collège Chasseloup-Laubat, theo tên của Hầu tước Prosper de Chasseloup-Laubat (1805–1873), Bộ trưởng Hải quân Pháp với nhiệm vụ chính là đào tạo học sinh trung học, lúc ấy gọi là Cao đẳng tiểu học, và học sinh được nhà cầm quyền nuôi nội trú cũng như có tiền tiêu vặt hàng tháng. Năm 1954, trường đổi tên thành trường Jean Jacques Rousseau, và năm 1967 chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đổi tên thành trường trung học Lê Quý Đôn. Tên này được giữ cho tới ngày nay.
Chasseloup Laubat là trường đào tạo khá nhiều nhân tài ở miền Nam nước ta trong những thập niên đầu thế kỷ 20 và Kampuchia. Được biết, ông Hoàng Sihanouk cũng từng học ở trường này.
Trường thứ ba được thành lập là trường Nữ công dành riêng cho nữ giới ở tu viện dòng thánh Phaolô, số 4 đường Tôn Đức Thắng hiện nay.
Năm 1860, theo yêu cầu của Tổng giám mục Lefèvre, Đại diện Tông Tòa Tây Đàng Trong, bề trên đã cử hai nữ tu dòng Thánh Phaolô gốc ở thành Chartres từ Hongkong sang Sài Gòn. Cùng đi có hai giáo sĩ người Pháp là linh mục Puginier, người sau này trở thành Giám mục Tây Đàng Ngoài tức miền Bắc Việt Nam, Giám mục Gauthier đại diện Tông Tòa Trung Đàng Ngoài tức vùng Thanh Nghệ Tỉnh và học trò của ông này là ông Nguyễn Trường Tộ, khi ấy đang lánh nạn ở Hongkong.
Năm 1862, mẹ bề trên dòng thánh Phaolô là Benjamin cho khởi công xây cất nhà giám tỉnh tại khu đất Đường Thành (Rue de la Citadelle). Toàn bộ công trình này lấy tên là La Sainte Enfance (Thánh Hài Đồng) hoàn thành vào ngày 10 tháng Tám năm 1864 do ông Nguyễn Trường Tộ thiết kế và xây cất. Công trình gồm một nhà nguyện rất đẹp với tháp chuông cao khoảng 20 mét, một khu dành cho nữ tu cùng nữ sinh và một khu cô nhi viện kiêm trường học. Sau khi hoạt động một thời gian, nhà Dòng dời về đây (khu Rue de la Citadelle – đường Cường Để, nay là Tôn Đức Thắng) và lần lượt phát triển thêm, gồm có: Một nhà tu riêng cho các bà sơ Việt Nam; Một nhà nuôi trẻ con Pháp và trẻ con lai; Một ký túc xá dạy dỗ nữ sinh con nhà khá giả bản xứ, gọi Trường Nhà Trắng, trường học nữ sinh điều khiển bởi 30 nữ tu; Một nhà nuôi trẻ mồ côi và con rơi bản xứ; Một nhà nuôi gái bản xứ bị dụ dỗ nay cải thiện.
Đến năm 1869, Mẹ Benjamin mở một trường nội trú dành cho các em nhỏ, trong đó, chia làm hai khu vực riêng biệt: một để nuôi dưỡng dạy dỗ các trẻ em con cái công chức châu Âu theo mô hình các trường học ở Pháp; phần còn lại dành cho các trẻ em bản địa cũng được nhận một nền giáo dục kiểu Pháp để các em có một vị trí thích hợp trong xã hội sau này.
Trường học dành cho nữ mang tên École de La Sainte Enfance. Trường này còn được gọi là trường Nhà Trắng không phải là vì trường được sơn màu trắng mà bởi vì các Sơ này “trinh bạch từ linh hồn đến những chiếc áo dòng trắng toát.” Chi phí hoạt động của trường do chính quyền Pháp tài trợ. Từ năm 1874, trường mở rộng việc nhận học sinh từ các gia đình trung lưu ở Nam Kỳ và có khoảng 113 học sinh.
Năm 1924, tu viện đổi tên thành tu viện Saint Paul, thì trường cũng đổi tên theo và là trường nữ tư thục lớn ở Sài Gòn dạy từ tiểu học cho đến bậc tú tài. Đặc điểm của trường Saint Paul là các nữ sinh mặc áo dài màu xanh dương rất đẹp hoặc áo sơ mi trắng, jupe xanh dương.
Tại trường này, bà bác sĩ đầu tiên của Việt Nam là Henriette Bùi đã học vào đầu thế kỷ 20.


Trường tiểu học Chợ Lớn là ngôi trường có ít tư liệu còn lại nhất. Đây là trường tiểu học dành cho người Hoa, thành lập trên phần đất chùa Chuông, ngôi chùa đã bị quân Pháp phá hủy từ năm 1860 để làm doanh trại quân đội. Chùa Chuông cũng là một ngôi chùa lớn ở khu vực Chợ Lớn xưa. Sau khi Pháp đánh hạ thành Gia Định, chùa Chuông [Clochetons] là một trong những ngôi chùa lớn từ Sài Gòn tới Chợ Lớn bị biến thành nơi đóng quân. Trường được thành lập có thể cùng lúc với trường Thuộc Địa, trên một phần đất của chùa được dành để mở ra một trường tiểu học lấy tên là “trường tiểu học Chợ Lớn.” Phần lớn trẻ em sống trong vùng Chợ Lớn, Phú Thọ, Tân An, Cần Giuộc, Cần Đước… có đi học đều là học sinh của trường này. Một trong những học sinh của trường sau này nổi danh là ông Trương Minh Ký.
Ông Ký là người sinh trưởng ở Gò Vấp. Năm 1862, khi Pháp chiếm hoàn toàn ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ ông được 7 tuổi. Vì mẹ mất sớm, cha tục huyền nên ông được đưa về sống với bà nội là bà Trịnh Thị Thu, một người Minh Hương, sống ở Chợ Lớn. Ông đã học ở trường Chợ Lớn cho đến năm 1871 thì ra trường rồi thi vào trường Sư Phạm thành phố.

Tại trường Sư Phạm ông mới gặp thầy Trương Vĩnh Ký để rồi sau đó trở thành học trò ruột của ông Vĩnh Ký.
Chúng tôi biết rất ít về ngôi trường này, chỉ biết từ sau năm 1954, trường này là trường trung học Hùng Vương cho đến nay, nằm trên đường Hùng Vương quận 5, Sài Gòn.
Năm 1874, khi trường Chasseloup Laubat được xây dựng, thì trường Taberd cũng được xây. Năm 1879, trường tiểu học ở Mỹ Tho cũng được xây dựng và trở thành college de My Tho dành cho các học sinh ở miền Tây Nam Kỳ.
Không chỉ có các trường lớn ở trung tâm Sài Gòn-Chợ Lớn và Mỹ Tho, Pháp còn khuyến khích mở các trường tư do giới Thiên Chúa mở và cai quản. Đồng thời cho mở các trường tổng, làng ở hầu hết các địa phương mà họ chiếm được.
Mặc khác, họ cũng đưa nhiều con em của giáo dân Thiên Chúa và công chức người Việt sang Seysen và Algie du học. Không rõ việc đưa học sinh Việt đi du học từ lúc nào nhưng từ năm 1868 đã có học sinh học ở ngoài Nam Kỳ lục tỉnh.

Theo Gia Định Báo ngày 15/1/1868, số trường học ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ có 56 trường với 1300 học sinh. Cũng năm này, nhà cầm quyền đã lập thêm các trường ở các tỉnh mới chiếm được là ba tỉnh miền Tây Nam kỳ là các trường Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Bến Tre và hứa sẽ còn lập thêm nữa, theo một lá thư của Giám đốc Nha Nội vụ gởi cho Thống đốc Nam Kỳ. Còn báo cáo của Đô Đốc Ohier vào tháng Ba năm 1869, thì có 104 trường, với 3,200 học trò. Sáu trong các trường này, chủ yếu những trường tại Sàigòn, được dạy bằng tiếng Pháp cũng như quốc ngữ. Sau đó trong cùng năm này, sĩ số học sinh là 4,481 học trò tại 120 trường. Ngoài ra, có 530 học trò tại sáu trường được các thầy giảng Học Thuyết Cơ Đốc Giáo giảng dạy. Đến năm 1870, các người học chữ quốc ngữ tại các tỉnh được cho hay lên tới hơn năm ngàn học sinh.
Sự phát triển này đã khiến một số người Pháp lạc quan “nổ” rằng “các trẻ em Việt Nam chen chúc tại các trường dạy bằng quốc ngữ.” Đến mức, Thống đốc Nam Kỳ Dupré vào tháng Hai năm 1873 phải “nói lại” rằng “Tôi lấy làm tiếc để nói rằng trong vấn đề quan trọng này của nền giáo dục công lập, chúng ta vẫn còn tìm kiếm và mò mẫm cho con đường của chúng ta đi. Các kết quả thu lượm được cho đến nay hãy còn xa sự thỏa mãn. Kể từ khi chiếm đóng, chúng ta đã nhìn thấy rất nhiều trường hiện hữu [trước đây] biến mất, và mọi điều hãy còn sẽ phải được tạo lập ra. Người ta muốn lợi dụng [tình thế] để thay thế Hán tự được dùng bởi người An Nam, bằng chữ viết Âu Châu mà các giáo sĩ truyền đạo đã sử dụng từ lâu … Rồi thì người ta đã ngưng việc giảng dạy chữ Hán tại các trường học mới lập của chúng ta và dạy dỗ trẻ em học đọc và viết bằng các mẫu tự của chúng ta. Nhưng sự cải cách thì quá sớm; không có gì để dạy học trò sau khi tập đọc và tập viết. Có sự thiếu thốn sách và cả giáo viên nữa … Tất cả các nỗ lực của chúng ta đã kết thúc với việc tập họp ba đến bốn ngàn trẻ em mà cha mẹ chúng đã được bảo đảm bồi thường bởi làng xã về sự hy sinh mà họ đã làm khi gửi con em đi học.”
Nhà cầm quyền cũng tổ chức nhiều cuộc thi dành cho học sinh và thầy giáo với những phần thưởng xứng đáng để khuyến khích học và dạy chữ quốc ngữ.
Theo thống kê của État de la l’Indochine năm 1904 thì Nam Kỳ có các trường Chasseloup Laubat có 22 giáo viên (người Việt) 253 học sinh (141 là học sinh người Pháp), trường Cao đẳng Mỹ Tho tức College de My Tho có 12 giáo viên (6 người Việt) 179 học sinh; trường Sư Phạm có 8 giáo viên (2 người Việt) 60 học sinh, trường Sơ Học có 8 giáo viên (1 người Việt) 270 học sinh, trường Chuyên Nghiệp có 9 giáo viên (3 người Việt) 60 học sinh. Không rõ theo bản dịch này, trường Chuyên Nghiệp có phải là trường dạy nghề ở xưởng Ba Son không? Vì năm 1906 trường Bá Nghệ tức trường Cao Thắng hiện nay, mới được thành lập. Riêng ở Sài Gòn Chợ Lớn còn có 3 trường với 526 học sinh [434 là người Việt] với 36 thầy [11 là người Việt]. Ngoài ra, các trường tỉnh [không có số thống kê] có 5060 học sinh với 91 thầy giáo trong số có 74 thầy người Việt. Đồng thời còn có 240 trường Tổng, Làng, Xã và 304 trường của Thiên Chúa giáo với khoảng 20 ngàn học sinh. Hầu hết các trường đều là trường tiểu học. Muốn học trung học tức Cao đẳng tiểu học, các học sinh phải khăn gói đến các trường College de My Tho nếu sống ở miền Tây; và các trường Chasseloup Laubat, d’Adran, Taberd nếu ở Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn hoặc các tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
Để đẩy mạnh việc phổ biến chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ lục tỉnh, từ năm 1869 nhà cầm quyền Pháp đã có nghị định về việc “chữ viết của tiếng An Nam bằng mẫu tự Âu châu trở thành bó buộc trong giấy tờ chánh thức” vào ngày 22/2/1869.
Điều 1: Kể từ ngày 1/4/1869 tất cả giấy tờ chánh thức: nghị định, nghị quyết, án lịnh, quyết định, phán quyết, thông tư….đều sẽ được viết và công bố bằng mẫu tự Âu châu, với những chữ ký của các người có thẩm quyền.
Điều 2: Không một bản dịch nào những văn thư đó bằng chữ Nho sẽ có tính cách đích thực và chỉ có thể được nhận dưới tư cách chỉ dẫn; nhưng một bản dịch bằng chữ Nho các nghị định và luật lệ để dán thông cáo sẽ được để trên cùng một tờ giấy, bên bản văn bằng tiếng An Nam. G.Ohier [Nguyễn Văn Trung, Chữ, Văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc, Sơn Nam xuất bản Saigon 1975, trang 25].
(còn tiếp)
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/
