Công viên điêu khắc Vigeland ở Oslo, Na Uy & 221 tác phẩm ngợi ca tình tự nhân loại

by Hà Giang

TRÙNG DƯƠNG

Người đàn ông luống tuổi chống khuỷu tay phải trên đầu gối, bàn tay ôm lấy cằm, mắt nhìn vào một cõi mông lung nào đó, trong khi người vợ đặt tay lên vai ông nhìn ông vẻ mặt quan tâm, như thể đang hỏi, “Ông có sao không?” Người chồng già cúi nhìn bà vợ yếu đuối bệnh hoạn nằm tựa đầu vào gối mình với vẻ ân cần, như vỗ về, như nói lên những chặng đường đời đã cùng trải qua với nhau. Bà già một tay bụm miệng, tay kia như ngăn bà bạn đừng nhìn vào cái gì đó khiến bà có vẻ sợ hãi hay lo âu. (Ảnh Trùng Dương)

Đó là những hình ảnh của ba trong số trên 200 pho tượng bằng đá granite và đồng được trưng bầy trong Công viên Điêu khắc Vigeland ở Oslo nổi tiếng thế giới. Công viên này còn đặc biệt ở chỗ toàn bộ các pho tượng và cả công trình dàn dựng công viên đều do tay một nghệ sĩ tạo ra: cố điêu khắc gia người Na Uy, Gustav Vigeland (1869-1943). Đây cũng là công viên lôi cuốn nhiều du khách nhất của Na Uy, hằng năm có hàng triệu người tới chiêm ngưỡng.

Hoàn tất trong vòng mười năm, từ 1939 đến 1949, Công viên Điêu khắc Vigeland nằm trong khuôn khổ Công viên Frogner ở Oslo. Đấy là riêng về khu trưng bầy các điêu khắc, còn 212 tác phẩm điêu khắc trưng bầy trong đó là kết quả của khoảng 20 năm làm việc của nhà điêu khắc, từ 1924 đến 1943, và đã được ông trao tặng thành phố Oslo để đền bù lại việc thành phố Oslo đã xây toà nhà cho ông ở và làm việc. Tòa nhà này nay là viện Bảo tàng Vigeland nằm ở phía Tây Nam của công viên điêu khắc, nơi chứa các tài liệu và mô hình liên quan tới các pho tượng trong công viên.

Các pho tượng, với đường nét đơn sơ song đầy tượng trưng, gợi cảm, nhằm ca ngợi con người trong những hoạt động hàng ngày, tình gia đình giữa cha con, vợ chồng hay tình nhân, anh chị em, ngay cả giận hờn (như tượng hai mẹ con xoay lưng lại nhau) và đôi khi hung hăng (như bức, khá lạ, diễn tả một bầy trẻ bám quanh như đang tấn công hay níu kéo một người đàn ông), giận dữ (như bức một người cha dọa đánh con trai và bức cậu bé tức giận), hay phiền muộn, lo âu, nhưng tựu trung là sự quan tâm, ân cần, dịu dàng toát ra từ những pho tượng, như lan toả sang người thưởng ngoạn. Điêu khắc mà diễn tả đến được như vậy, qua chỉ vài nét đẽo, tôi nghĩ, người nghệ sĩ đã đạt tới một trình độ nghệ thuật tối cao.

Điêu khắc gia Gustav Vigeland trong xưởng điêu khắc năm 1903, trái. (Ảnh vigeland.museum.no). Và, phải, Vigeland chụp năm 1929. (Ảnh Norsk Folkemuseum)

Adolf Gustav Vigeland sinh năm 1869 trong một gia đình nghệ nhân, cha là một người chuyên sản xuất đồ đạc và người em cũng trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng, tên Emanuel Vigeland. Adolf Vigeland mất vào năm 1943, sáu năm trước khi công viên điêu khắc được hoàn tất. Khi còn niên thiếu, ông được gia đình gửi lên Oslo học nghề khắc gỗ, nhưng phải ngưng nửa chừng khi cha ông mất và ông phải về quê để lo việc nhà. Năm 1888 ông quyết định trở lại Oslo theo đuổi ngành điêu khắc và được một nhà điêu khắc tên tuổi, tên Brynjulf Bergslien, nhận đỡ đầu cho vào học nghề. Năm kế đó ông triển lãm pho tượng đầu tay, “Hagar and Ishmael”. Vào những năm cuối thế kỷ 19, Vigeland có dịp viếng thăm các thành phố văn hoá nghệ thuật như Copenhagen, Paris, Berlin và Florence. Khi ở Paris ông thường tới thăm xưởng điêu khắc của Auguste Rodin, tác giả của pho tượng lừng danh “The Kiss”. Khi viếng Ý, ông nghiên cứu những tác phẩm điêu khắc thời cổ điển và Phục hưng. Chính trong thời gian này đã hình thành trong ông chủ đề về sự sống và cái chết cũng như liên hệ giữa con người, mà sau đó ông đã đem vào các tác phẩm điêu khắc trưng bầy trong Vigeland Park.

Có thể nói Công viên Điêu khắc Vigeland là kết quả của một đời nghệ sĩ ám ảnh bởi đời sống con người từ khi còn thơ ấu tới khi chết — cái vòng sinh-lão-bệnh-tử — loại đề tài mà dưới bàn tay tài ba của một nghệ sĩ thường khiến ta cảm thấy một liên hệ rất gần gũi, sâu sắc. 

Mặc dù không thấy ở đâu, trong một số ít tài liệu tôi đã đọc được, nói về ảnh hưởng của những tàn phá của hai cuộc Thế chiến đối với con người, từ sinh mạng tới tinh thần, trên tác phẩm của Vigeland, nhưng tôi nghĩ có lẽ chính những hủy hoại do chiến tranh đã khiến ông đem vào tác phẩm niềm đam mê thiết tha đối với con người và các sinh hoạt của đời sống thường nhật và bình dị. Qua nghệ thuật, ông dường như đã tái tạo niềm tin nơi con người và đặt tin tưởng vào đời sống tâm linh. Không lớn lối chống chiến tranh, Vigeland chọn diễn tả lòng yêu chuộng hòa bình của mình qua những cái đẹp của con người và các liên hệ rất đơn sơ như gia đình, vợ chồng, anh chị em, bằng hữu. Được biết Vigeland cũng là người đã vẽ nên mề đay giải Nobel Hòa Bình; và Oslo là nơi hàng năm giải này được trao tặng cùng với những giải Nobel khác.

Trái, tượng Gustav Vigeland (1869-1943), tác giả của toàn bộ trên 220 tác phẩm điêu khắc trong Công viên Điêu khắc Vigeland, Oslo. (Ảnh TD) Phải, đường dẫn vào công viên điêu khắc với hai hàng tượng bằng đồng lớn bằng người thật, rồi tới một hồ phun nước bao quanh bởi nhiều tác phẩm điêu khắc, và cuối cùng là tượng đài Monolith cao 14 mét, tức 46 feet chưa kể bệ, bao quanh bởi 36 nhóm tượng lớn hơn người thật. (Ảnh Internet)

Tượng đài Monolith (mono có nghĩa là một, và lith là hòn đá) là cao điểm của toàn bộ điêu khắc Vigeland, ở cả vị trí, nghệ thuật và ý nghĩa. Bức Monolith, cao 14 mét, với cả bệ là 17 mét cả thẩy (56 feet), được đặt tại điểm cao nhất trong công viên, bao quanh bởi 36 nhóm tượng bằng đá granite được nhà điêu khắc khởi công vào thời kỳ đệ nhất Thế chiến và hoàn tất vào năm 1936, năm bắt đầu trận đệ nhị Thế chiến. Nhóm tượng này mô tả sinh hoạt của con người qua những tương quan mật thiết, như tượng những người già cả mà tôi đã đề cập tới ở đầu bài.

Về kỹ thuật, theo các tài liệu liên hệ, tượng đài Monolith được tạc từ một phiến đá duy nhất, do Vigeland vẽ và nặn bằng đất sét, và ba nhà điêu khắc giúp khắc lại trên tảng đá granite, mất cả 14 năm trời mới hoàn tất. Nội dung gồm 121 hình người lớn bé già trẻ và sơ sinh cuốn cuộn vào nhau như cùng về trời, phảng phất một mối buồn pha lẫn hy vọng, một cảm giác có-bên-nhau chứ không phải quạnh hiu một mình trước cái kết thúc phải đến của một đời người. 

Và, cùng với tám bộ cổng bằng sắt sơn đen chạm trổ các hình nhân thuộc mọi lứa tuổi rất công phu bao quanh tượng đài Monolith, mang cái thông điệp, tôi tưởng tượng, Vigeland muốn truyền lại cho người thưởng ngoạn, song cũng vô cùng cần thiết cho thế hệ của ông, cái thế hệ đã phải trải qua hai cuộc thế chiến khủng khiếp giết hại hằng trăm triệu con người, đó là sự tồn tại của một niềm tin vào một thế giới tâm linh.

Trái, sơ đồ Công viên Vigiland do chính nhà điêu khắc phác họa: hình vuông trên cùng là nơi đặt tượng đài Monolith, rồi tới hồ phun nước và cây cầu bắc qua một hồ nhân tạo với hai bên lan can cầu là những pho tượng bằng đồng diễn tả nhiều động tác và phản ứng của con người trong đời sống thường nhật. Bên trái của bản đồ là viện Bảo tàng Vigeland nơi chứa toàn bộ tài liệu về các công trình nghệ thuật trong công viên. (Bản đồ vigeland.museum.no) Phải, tượng đài Monolith bao quanh bởi 36 nhóm tượng bằng đá, mô tả sinh hoạt đời thường song hạnh phúc của nhân loại. (Ảnh Trùng Dương)

Và sau hết, về phía Tây của tượng đài Monolith là một điêu khắc có tựa đề là tượng Wheel of Life (Vòng Nhân sinh) thực hiện vào năm 1933-34, mô tả một vòng hoa kết bởi những thân hình đàn ông, đàn bà và trẻ em đan bện vào nhau, tóm lược chủ đề của toàn thể công viên điêu khắc: Hành trình của con người từ sinh ra cho tới khi nằm xuống, trải qua những hạnh phúc, phiền muộn, mơ ước, thất vọng và hy vọng.

Hai công trình điêu khắc côn gphu và gói ghém trọc vẹn chủ đế về nhân sinh trong Công viên Điêu khắc Vigeland: Trái, tượng đài Monolith, bằng đá granite, hoàn tất nằm 1944. (Ảnh Trùng Dương) Phải, Wheel of Life, bằng đồng, 1934. (Ảnh artodyssey1.blog.com)

Các pho tượng trong Vigeland đều khỏa thân. Tôi nhớ một chị bạn của tôi đi Vigiland về, kể là quá “mắc cở” không dám xem hết. Theo tôi, ngoài ảnh hưởng truyền thống điêu khắc xưa, Vigeland có lẽ cũng muốn trình bầy con người ở trạng thái nguyên thủy, chưa bị những vướng bận của đời sống vật chất bon chen, từ đó sinh ra tham vọng, xung đột, kèn cựa và chém giết nhau – cái nhân-chi-sơ-tính-bản-thiện hết sức trong sáng, hồn nhiên vậy. 

Tôi tiếc đã chỉ đủ thì giờ viếng công viên điêu khắc Vigeland, vừa ngắm vừa chụp trên 200 tấm ảnh, bên cạnh sự kiên nhẫn của hai chị bạn đồng hành. Sợ trễ giờ về tầu, nên đành bỏ không viếng thăm Viện Bảo tàng Vigeland cũng gần đó, mà có lẽ đòi hỏi nhiều thời giờ để xem xét những tài liệu kể lại từng diễn biến của mỗi tác phẩm điêu khắc, đặc biệt về tượng đài Monolith và Vòng Nhân Sinh. 

Chúng tôi ra trạm xe điện, nhưng tôi vẫn còn cảm thấy như mình vẫn còn đang đi trên mây với trong đầu ngập tràn những hình ảnh vừa thu lượm được vào máy hình cũng như trong ký ức. Trên chuyến xe điện về nhà ga trung ương bên hải cảng Oslo để trở lại tầu du hành Rotterdam, tôi nghe một thanh niên nói tiếng Anh với người ngồi bên cạnh: “Từ hồi còn bé tôi đã nghe nói và muốn đi thăm Công viên Điêu khắc Vigeland. Giờ mới có dịp. Thật tuyệt vời.”

Tôi mừng là trong cái danh sách những nơi muốn thăm ở Oslo trong vỏn vẹn có chín tiếng đồng hồ, ít ra tôi đã thăm được Công viên Điêu khắc Vigeland, thỏa mãn khao khát lâu nay.

Sau đây là một số trong những hình ảnh tôi ghi nhận trong một chuyến viếng thăm tuy có phần chớp nhoáng song đã để lại những ấn tượng sâu đậm khó phai.

Trẻ thơ trong cái nhìn trìu mến của điêu khắc gia Adolf Gustav Vigeland. Bức tượng được nhiều người chú ý nhất là Angry Boy (Cậu bé tức giận), hình bên phải. Không tài liệu nào trong số những bài tôi đã đọc cho biết tại sao Vigeland tạc bức cậu bé giận dữ. Nhiều người tìm tới chiêm ngưỡng pho tượng vì nghe nói đây là bức tượng nổi tiếng nhất. Tôi nghĩ mỗi người tùy theo cảm quan cá nhân sẽ giải thích theo cách riêng của mình. Riêng tôi, tôi nghĩ Vigeland đã dùng cậu bé để diễn tả nỗi tức giận của mình trước những tàn phá điên cuồng của hai cuộc thế chiến mà ông đã trải qua, bức tượng này và bức kế em bé đứng khóc cũng đồng thời nói lên tài năng điêu khắc tuyệt vời của người nghệ sĩ. (Ảnh Trùng Dương)
Trẻ thơ hiện diện hầu như khắp nơi trong bộ diệu khắc Vigiland, trong vòng tay, ánh mắt bảo bọc của người lớn. (Ảnh Trùng Dương)
Các thanh niên, thiếu nữ, trẻ thơ hồn nhiên vui đùa. Sự hồn nhiên vô tư như lan tỏa sang cả người thưởng ngoạn. (Ảnh Trùng Dương)

You may also like

Verified by MonsterInsights