ĐINH VĂN TUẤN
Dẫn nhập
Bản diễn âm Chinh phụ ngâm 征婦吟 nổi tiếng hiện hành từ xưa vẫn được người đời truyền tụng là của Hồng Hà nữ sĩ – Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
Tuy nhiên gần một thế kỷ qua, khởi đi từ Phan Huy Chiêm – Đông Châu (1926) cho đến các nhà biên khảo như Hoàng Xuân Hãn (1953), Nguyễn Văn Dương (1964), Lại Ngọc Cang (1964), Nguyễn Văn Xuân (1972)… đã quả quyết phủ nhận Đoàn Thị Điểm là dịch giả Chinh phụ ngâm và giành lại tác quyền cho Phan Huy Ích (1751 – 1822).
Nhưng cho đến nay những nỗ lực này chưa thành công, bởi vì mấu chốt quan trọng nhất để giải quyết vấn đề là thực sự chưa tìm ra bản khắc in hay chép tay Chinh Phụ Ngâm “tân khúc” đề chính xác tên Phan Huy Ích ở tờ bìa.
Bản chính vừa chữ Hán và chữ Nôm (bản Phan Huy) mà Phan Huy Chiêm từng tiết lộ vào năm 1926 thật ra không có thông tin về tác giả, niên đại. Khi Hoàng Xuân Hãn và Lại Ngọc Cang liên hệ con cháu nhà họ Phan để tìm hiểu, không hiểu vì lẽ gì, chỉ có bản phiên âm chữ La tinh hay chép lại theo trí nhớ và đến nay bản Phan Huy đã tuyệt tích! Còn bản chép tay Tân san Chinh phụ ngâm diễn âm từ khúc 新刊征婦吟演音辭曲 (nhà tàng bản Chính Trực Đường khắc in năm 1815) được Nguyễn Văn Xuân công bố năm 1972 tưởng như đã giải quyết được vấn đề, tuy nhiên văn bản này ở tờ bìa không đề tên Phan Huy Ích và bài Nguyên tự lại thiếu sót phần lạc khoản quan trọng có nội dung liên quan đến Phan Huy Ích, nên sau đó đã gây ra sự hoài nghi trong học giới.
Một phong trào phản bác đã diễn ra, nhiều nhà biên khảo như Biệt Lam, Thuần Phong, Phạm Văn Diêu, Lê Hữu Mục, Nguyễn Thạch Giang…bằng các phương pháp, luận điểm khác nhau đã bênh vực, khẳng định Đoàn Thị Điểm chính là dịch giả bản diễn âm Chinh phụ ngâm. Gần đây, Trần Thị Băng Thanh, sau khi đã hoài nghi bản Phan Huy và Chính Trực Đường, đã xác nhận trở lại tác quyền bản diễn âm Chinh phụ ngâm cho Đoàn Thị Điểm (căn cứ vào bản khắc Chinh phụ ngâm bị lục, Long Hòa, 1902).
Chúng tôi đã tìm hiểu, kiểm thảo kỹ lại những bằng chứng quan trọng đã được công bố liên quan đến việc Phan Huy Ích diễn âm Chinh phụ ngâm nhưng cũng chỉ thấy rằng, gia phả họ Phan đã từng ghi nhận Phan Huy Ích diễn âm Chinh phụ ngâm, bài thơ Ngẫu thuật của Phan Huy Ích tự xác nhận ông có “tân diễn” Chinh phụ ngâm, đây là sự thật.
Tuy nhiên, ngay cả bộ Dụ Am ngâm lục 裕庵吟錄 còn lại của Phan Huy Ích cũng không lưu lại bài diễn âm Chinh phụ ngâm do Phan Huy Ích sáng tác. Sự thật là chưa có một văn bản Chinh phụ ngâm nào (khắc in hay chép tay) đã từng ghi tên tác giả là Phan Huy Ích và bài “tân diễn” Chinh phụ ngâm của Phan Huy Ích đến nay vẫn không thể xác định chính xác là văn bản nào trong tất cả các văn bản diễn âm Chinh phụ ngâm còn lại.
Đáng chú ý là bản Chính Trực Đường do Nguyễn Văn Xuân công bố, thường được tin tưởng là một bản chép tay từ bản in gốc đời Gia Long (1815), trong có bài Nguyên tự được hiểu là Phan Huy Ích viết, nội dung bài diễn âm cũng trùng khớp với bản Phan Huy, nhưng thật ra, như chúng tôi đã phản biện, nhiều khả năng là một ngụy thư: Năm 1802, nhà riêng của Phan Huy Ích bị cháy, sách vở không còn một chữ và đến tháng Sáu, ông ra hàng nhà Nguyễn, bị giam lỏng chờ xét xử mãi đến tháng Hai năm 1803 mới được ân xá rồi sau đó lại được Gia Long trọng dụng vào việc tiếp sứ, mang trọng trách lớn, giữ vị trí trung tâm ở Bắc Thành, chú tâm đạo diễn điều hành việc ngoại giao tiếp sứ Thanh nên rất bận rộn, không rảnh để làm chuyện khác. Trong hoàn cảnh này, Phan Huy Ích làm sao có sẵn sách tham khảo, các “bài diễn âm cũ” để vào lúc “nhàn rỗi, buồn chán” duyệt xét lại, vừa phải tìm hiểu, cân nhắc để chú thích kỹ lưỡng, vừa chọn từ, ý, vần để diễn âm 408 câu Chinh phụ ngâm khúc ngay vào thời điểm bận rộn, lo lắng việc tiếp sứ là không hợp tình hợp lý, không phù hợp sự thật lịch sử.
Bản chép tay Chính Trực Đường do một ai đó đã dựa vào những thông tin nghiên cứu, tranh luận của các học giả, nhà biên khảo từ năm 1926 đến trước năm 1970 (là năm Nguyễn Văn Xuân phát hiện bản Chính Trực Đường) để cố ý giả mạo văn bản nhằm mục đích giành lại tác quyền bài diễn âm Chinh phụ ngâm phổ truyền cho Phan Huy Ích Có thể đoán định, bài Nguyên tự ra đời sau khi Phan Huy Chiêm (1926) lần đầu tiên công bố bài Ngẫu Thuật và sau khi Hoàng Thúc Trâm (1950) đoán định bài Ngẫu thuật xuất hiện khoảng 1803 -1804.
Bản Chính Trực Đường nếu có gì xác thật thì quá lắm là ở phần nội dung bài diễn âm Chinh phụ ngâm và cũng chỉ như số phận của các bản Nôm Chinh phụ ngâm vô danh khắc in (như Trường Trịnh Đường), chép tay (như các bản Nôm Chinh phụ ngâm còn lại) hay bản phiên âm La tinh của nhà họ Phan mà thôi.
Về tài năng làm văn thơ Quốc âm của Phan Huy Ích, nói chung các nhà nghiên cứu đều nhận định văn thơ chữ Nôm của ông (như các bài văn tế chữ Nôm) có khuynh hướng văn chương uyên bác, trang nghiêm, thường hay dùng nhiều từ ngữ Hán văn cổ kính và những điển tích cầu kỳ, thật khác hẳn áng văn chương bình dân trác tuyệt là bản dịch Chinh phụ ngâm nổi tiếng, đã được dịch giả Đoàn Thị Điểm công phu chọn lọc, chải chuốt từ ngữ đầy nhạc tính, ngôn ngữ dân tộc một cách tài tình dễ làm say đắm lòng người, sánh ngang với kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Trong Dụ Am ngâm lục, Tập 6, Vân du tùy bút 雲遊随筆 (1804 -1814), có chép lại 11 bài thơ Nôm của Phan Huy Ích, chứng tỏ Phan Huy Ích cũng ít làm thơ Nôm. Những bài thơ này làm theo lối thù tạc nên về nghệ thuật, nội dung cũng thuộc loại tẻ nhạt, bình thường. Chỉ có một hai bài xuất hiện một vài câu là đặc sắc, dĩ nhiên chỉ bấy nhiêu như thế không đủ chứng cứ để người ta tin rằng Phan Huy Ích là tác giả bài diễn âm Chinh phụ ngâm phổ truyền, một kiệt tác văn chương Việt Nam.
Góp phần xác định Đoàn Thị Điểm là tác giả bản diễn âm Chinh phụ ngâm hiện hành, mới đây qua bài viết Những chữ húy trong bản diễn âm Chinh phụ ngâm 征婦吟 chứng minh tác giả là Đoàn Thị Điểm, chúng tôi đã phát hiện những bằng chứng về chữ húy thời Lê – Trịnh: Kỳ 祁, Sâm 森, Đàm 潭, Diêu 祧 trong nội dung các bản Chinh phụ ngâm chữ Nôm khắc in hay chép tay còn lại, có khả năng chứng minh chắc chắn bản diễn âm Chinh phụ ngâm hiện hành do Đoàn Thị Điểm (1705-1748) sáng tác chứ không phải là của Phan Huy Ích.
Bài viết này tiếp tục nghiên cứu về từ cổ thuộc thời đại Lê – Trịnh, nửa cuối thế kỷ XVIII xuất hiện trong bản diễn âm Chinh phụ ngâm. Những từ cổ này sẽ khẳng định bản diễn âm Chinh phụ ngâm do Đoàn Thị Điểm sáng tác.
Chúng tôi đã sử dụng các bản Nôm Chinh phụ ngâm sau đây để khảo sát: bản Nôm Chinh phụ ngâm 征婦吟, Trường Thịnh Đường khắc in (TTĐ); bản khắc in Chinh phụ ngâm 征婦吟, không ghi tên dịch giả, nhà in, thư viện riêng Hoàng Xuân Hãn (TVHXH); bản chép tay Chinh phụ ngâm diễn ca 征婦吟演歌 do Tôn Thất Lương công bố trong Chinh phụ ngâm khúc, nhà in Tân Việt (TV); bản Nôm Chinh phụ ngâm bị lục 征婦吟備錄 trong Danh gia quốc âm 名家國音, Thiên Thủy Khẩu Vũ Hoạt, Long Hòa Hiệu Tàng Bản (LH) khắc in năm 1902; bản Nôm chép tay Chinh Phụ Ngâm 征婦吟 trong Chinh phụ ngâm, N.T.H, Dịch quốc ngữ, theo bản chữ Nôm, hiệu Ích Ký (IK) không rõ năm; bản Nôm chép tay Chinh phụ ngâm diễn quốc âm 征婦吟演國音 trong Thi ca Nam âm 詩歌南音, Hồng Liệt Bá, AB 164, Hoàng Xuân Hãn gọi là bản Bác cổ (BC), chúng tôi không có bản Nôm này nên chỉ tham khảo phần phiên âm theo Hoàng Xuân Hãn (Bị khảo) và Trần Thị Băng Thanh; bản Nôm chép tay Tân san Chinh phụ ngâm diễn âm từ khúc 新刊征婦吟演音辭曲 do nhà tàng bản Chính Trực Đường 正直堂 khắc in (CTĐ) vào năm 1815.
Từ cổ trong Chinh phụ ngâm 征婦吟
a. Từ cổ năng nổ 能弩
Câu 105: Tưởng chàng trải nhiều bề năng nổ
Năng nổ, bản TTĐ và TVHXH ghi là 能弩, LH, CTĐ, IK ghi là 弩. Bị khảo đọc là nắng nỏ, giải nghĩa là gắng gỏi, cố sức. Cao Đình Nam cho nắng nỏ là khó nhọc; Thuần Phong cho nắng nỏ là nắng ráo, nắng nôi, cực khổ; Tôn Thất Lương giảng nắng nỏ là lao khổ, mệt nhọc; Lại Ngọc Cang đọc là năng nỏ, nghĩa cổ là gắng gỏi, cố sức. Nguyên tác Hán văn Chinh phụ ngâm 征婦吟 của Đặng Trần Côn (Nguyên tác) có ý nói người chồng giong ruổi cõi ngoài (馳騁外) như vậy theo chúng tôi, dựa vào TTĐ 能弩 có thể đọc là năng nổ nghĩa là xông xáo, hăng hái (nghĩa này vẫn dùng hiện nay) sẽ phù hợp hơn. Theo Bị khảo, “năng nổ” còn có ở các bài Chinh phụ ngâm khác có văn phong đời Lê như bài C, câu 405: “ Chí tang bồng đã cam năng nổ,” bài E, câu 215: “Miễn chàng năng nổ chí trai”, bài F, câu 5: “ Trượng phu năng nổ cung tên”, ngoài ra hầu như không thấy xuất hiện ở các văn bản chữ Nôm khác, chứng tỏ bản diễn âm Chinh phụ ngâm hiện hành với “năng nổ” thuộc cùng thời đại, thế kỷ XVIII, triều Lê – Trịnh.
b. Từ cổ me 鎇
Câu 108. Me reo đầu ngựa giáo dan mặt thành Me, các bản TTĐ, TVHXH, LH, CTĐ…đều là chữ 鎇. Bị khảo đọc là mày, cho nghĩa là phần bằng sắt hay đồng, nhọn, chắp vào đầu cái tên, chắc là vì dựa vào chữ 鏑 (mũi tên bịt sắt) trong Nguyên tác, chúng tôi chưa tìm ra âm đọc mày và nghĩa này trong các tự vị, tự điển xưa. Theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Mày: cây làm trán cửa để trên đầu cửa nhưng nghĩa này không liên quan gì đến đầu mũi tên bịt sắt cả, sau Bị khảo các bản quốc ngữ đều phiên theo là “mày”. Vì tối nghĩa nên bản TV đã đổi là gươm 鎌, IK là tên 𥏌.
Chúng tôi đã tìm ra âm đọc cùng ý nghĩa chính xác của chữ 鎇 phù hợp với Nguyên tác, tự điển Việt-Bồ-La của A. Rhodes (Việt-Bồ-La) đã ghi nhận “me tên” nghĩa là đầu sắt của mũi tên, rồi đến tự vị Annam-Latinh của P. Béhaine (Béhaine) cũng ghi nhận me 楣, “tên me” nghĩa là một loại tên bắn, sau này đến Huỳnh Tịnh Của cũng ghi nhận Me 楣 nhưng giảng nghĩa tường tận hơn: Me: mũi tên bằng sắt; Tên me: sỏ (đầu mũi) tên có bịt sắt. Theo Nguyễn Quang Hồng, Tự điển chữ Nôm dẫn giải (Nguyễn Quang Hồng), Trong bản chữ Nôm Tân biên Truyền kỳ mạn lục 新編傳奇漫錄 bản khắc in năm Cảnh Hưng 35 (1774) cũng đã có me 鎇: “túi cung da, me tên thiếc”. Như vậy chữ Nôm 楣, 鎇 ký âm cho “me” (mũi tên bằng kim loại), thường đi với “tên” như me tên, tên me nghĩa là cái đầu nhọn mũi tên bằng kim loại. Do đó âm đọc “mày” của Hoàng Xuân Hãn là vô căn cứ, nên cần phải xác định lại âm “me” cho phù hợp với ngữ âm lịch sử thế kỷ XVIII, thời của Đoàn Thị Điểm. Lưu ý, sau chữ me, bản Nôm TTĐ, TVHXH, bản LH là treo 撩, bản IK là gieo 招 đều không phù hợp với Nguyên tác: “鳴鏑” (mũi tên bịt sắt bay kêu lên), chỉ có bản CTĐ và bản BC viết là reo 嘹 rất hợp với 鳴 (kêu lên) trong Nguyên tác, vậy c.108 sẽ là: Me reo đầu ngựa giáo dan mặt thành.
c. Từ cổ ba xòa 芭 莎
Câu 132: Phù dung lại rã bên sông ba xòa
“Ba xòa” có gốc Hán bà sa 婆娑 (lòa xòa, rời rạc, tàn tạ), CTĐ cũng chép là 婆娑. TTĐ, TVHXH, IK là ba sa 芭 莎 có thể đọc là ba xòa, TV là bà xoa 婆 扠 có thể đọc là bà xòa, ở câu này nên đọc ba xòa vì thuận âm hơn bà xòa. Ba xòa không thấy có ở các bản Chinh phụ ngâm khác trước và sau thế kỷ XVIII, các tự điển, tự vị xưa như của Rhodes, Béhaine, Taberd, Huỳnh Tịnh Của, Génibrel cũng vắng bóng mục từ bà xòa, ba xòa. Bị khảo đọc là ba sòa (=bà sòa), “trỏ vật gì chiếm nhiều chỗ mà không gọn”, các bản Quốc ngữ có khi đọc là bơ sờ nhưng không chú nghĩa. Chúng tôi tìm thấy trong Dictionarium Anamitico-Latinum của J.S Theurel (Theurel) có mục từ “Bà xòa: circà se extendere (v.gr. umbra)”, Bà xòa: lan tỏa ra xung quanh (ví dụ như bóng tối) và Dictionnaire Franco-Tonkinois – Illustré (1898) của P.-G.V đã ghi nhận “bà xòa” trong mục từ Ramifier (se). Ra nhiều ngành; (cây) bà xòa ou lòa xòa. Như vậy ngày xưa “bà sa” gốc Hán nghĩa là lòa xòa đã được Việt hóa thành “bà xòa” (lòa xòa, lan tỏa) và biến âm là “ba xòa” ở Chinh phụ ngâm. Có thể là đây một từ cổ “độc hữu” chỉ thấy có ở bản diễn âm Chinh phụ ngâm thuộc thời đại Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
d. Từ cổ bồ chì 哺持
Câu 156: Con thơ măng sữa vả đương bồ chìBồ chì nguyên gốc từ chữ Hán phù trì 扶持: giúp đỡ, chăm sóc, nuôi dưỡng. Bồ chì, TTĐ, TVHXH là 哺持, TV, CTĐ là 哺, LH, IK là phù trì 扶持. Theo Nguyễn Quang Hồng, bồ chì 逋持, 哺 xuất hiện trong thơ Nôm Ức Trai di tập 抑齋遺集: “Tùng cúc bồ chì nhớ việc hằng” và Phan Trần truyện 潘陳傳: “Những mong khuya sớm bồ chì,” tự vị Béhaine từng ghi nhận Bồ chì 蒲鈘: mẹ chăm sóc con thơ và dẫn câu “Con thơ ai kẻ bồ chì dưỡng nuôi”. Qua đó có thể thấy “Con thơ…bồ chì” đã thông dụng vào thế kỷ XVIII và cũng chính là thời đại của Đoàn Thị Điểm (1705-1748) nên tác giả đã vận dụng để viết câu: “Con thơ măng sữa vả đương bồ chì.” Đây có thể là một bằng chứng góp phần xác định Đoàn Thị Điểm chính là tác giả bản diễn âm Chinh phụ ngâm nổi tiếng hiện hành.
e. Từ cổ mang mể 恾 [忄+美]
Câu 162. Nỗi quan hoài mang mể biết bao
Mang mể, TTĐ 恾 [忄+美] và các bản Nôm khác đều khắc viết chữ Nôm như 恾/ , [忄+美]/𠸍 với âm “mang mể,” chỉ riêng bản LH có lẽ vì thấy tối nghĩa nên là đổi “mang mể” thành “ngang ngửa” nhưng ý nghĩa gượng ép. Cao Đình Nam đọc và cho nghĩa măng mẻ là bận rộn; Bị khảo cho mang mể là đeo mang; có luôn trên người hoặc trong lòng; Trong Giúp Đọc Nôm Và Hán Việt, Trần Văn Kiệm cho nghĩa mang mể là thương nhớ vẩn vơ (!); Theo Hoàng Ngọc Phách – Lê Thước – Vũ Đình Liên trong Chinh phụ ngâm, mang mẻ là đeo mang, vấn vít. “mang mể” hầu như vắng bóng trong các tự điển, tự vị xưa, chỉ riêng tự điển của Theurel đã ghi nhận “Mang mể: in utero gestare” (mang trong bụng mẹ, có thai), tự vị Béhaine, Taberd, Huỳnh Tịnh Của chỉ có Mang mển với nghĩa mang trong bụng, có thai. Vậy có thể mang mể là một cách đọc khác của mang mển nghĩa là mang nặng trong bụng và được chuyển nghĩa là đeo mang nặng nề. Theo Bị khảo các bài Chinh phụ ngâm khác có văn phong đời Lê cũng có “mang mể” như bài B, câu 13: “Lưng trẩy đi cung tên mang mể”, bài D, câu 13: “ Cung tên mang mể sau mình”, ngoài ra ở Nhị độ mai diễn ca 二度梅演歌 (khoảng cuối thế kỷ XVIII) cũng có “mang mể” ở câu: “Chẳng hay duyên mới có mang mể cùng,” theo đó có thể cho bản diễn âm Chinh phụ ngâm hiện hành với “mang mể” cũng thuộc thời Lê. Đây cũng là bằng chứng góp phần xác định bản diễn âm Chinh phụ ngâm hiện hành thuộc thời đại của Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
f. Từ cổ giăng văng 江冰
Câu 238: Xót nỗi chàng ngoài cõi giăng văng
Giăng văng, TTĐ, TVHXH là 江冰, các bản Nôm khác đều là 江 (扛) 冰, có âm là giang băng. Nguyễn Quang Oánh trong Chinh phụ ngâm cho giang băng là nơi rét lắm, nước sông đóng lại thành băng; Bị khảo đọc là chăng văng dựa theo Taberd, Génibrel cho nghĩa là bộ chạy vạy luôn, vất vả (nhưng âm “chăng” xưa hay dùng 庄, 拯 để ký âm còn 江, 扛 hầu như không thấy dùng); Lại Ngọc Cang cho giang băng, hiểu nghĩa bóng của “băng giá trên sông” là nơi xa xăm lạnh lẽo nhưng các giải nghĩa trên lại không đúng ý Nguyên tác là 重關 (cửa ải nhiều lớp). Chắc vì 江 (扛) 冰 tối nghĩa nên các bản chữ Nôm, Quốc ngữ sau đã đổi thành Giang Lăng, trùng quan. Chúng tôi đọc 江 (扛) 冰 là giăng văng, “giăng văng” hiếm thấy trong các văn bản Nôm và các tự điển tự vị xưa, tuy vậy trong Dictinonarum Latino-Annamiticum của M.H Ravier đã ghi nhận: “Lanugine…2. Giăng văng, giăng tơ” và chúng tôi đã tìm thấy “giăng văng” có ở thơ Nguyễn Tông Quai (1693 – 1767) trong bài Tiêu Tương xuân vãn (Sứ trình tân truyện) với câu: “Giăng văng mặt nước vài con én”; bài Buồm cột Tầu thơ (1794) trong Nhật Trình Kim Thư Khất Chính Chúa Giáo, của Philipphê Bỉnh: “Vững vàng nào phải chạy giăng văng,” theo đó ta có thể hiểu giăng văng với nghĩa là giăng ra, văng ra; lao tới ngang, dọc; chạy đôn chạy đáo và sẽ được chuyển nghĩa là dấn mình, dấn thân, xông pha (vào chốn nguy nan). Cõi giăng văng: cõi xông pha (dấn thân chiến đấu). Theo Bị khảo, “giăng văng “ cũng có bài C câu 87: “Mấy người áo sắt giăng văng” chứng tỏ “giăng văng” là một từ ngữ phổ biến ở thế kỷ XVIII, thời đại Đoàn Thị Điểm (1705-1748) và không còn thấy xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX, thời điểm 1804 Phan Huy Ích tân diễn Chinh phụ ngâm khúc.
g. Từ cổ bui 盃
Câu 259: Bui còn hồn mộng được gần TTĐ, TVHXH và các bản Nôm TV, LH là vui 𢝙, không hợp với 惟 (chỉ có) trong Nguyên tác, bản BC, IK là bui 盃, CTĐ là bui 𠸟 là phù hợp Nguyên tác, “bui” còn có ở câu 269: “Bui (盃) có một tấm lòng chẳng dứt” (TTĐ, TVHXH). Theo Bị khảo, “bui” có ở bài B câu 411: “Thuở hợp hoan vả vui bui ít,” C câu 305: “”Bui thì có tấm lòng chẳng dứt.” Bui là từ cổ nghĩa là chỉ có (惟), thường dùng vào đời Lê – Trịnh, đời Nguyễn rất hiếm thấy, theo Nguyễn Quang Hồng, bui có ở các bản Nôm cổ như Quốc âm thi tập 國音詩集 (Nguyễn Trãi): “Bui có một niềm chăng nỡ trễ,” Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục 古珠法雲佛本行語錄: “Bui thầy Khâu Đà La theo ông Tu Định rước về nhà”; Tế văn đối liễn thi ca tạp sao (Nguyễn Hữu Chỉnh) 祭文對聯詩歌雜抄: “Ai hay, chốn quê người bui một chị một em.” Đây có thể là bằng chứng góp phần xác định bản Chinh phụ ngâm hiện hành thuộc thời đại Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
h. Từ cổ khong khen
Câu 382: Khúc nhạc từ réo rắt khong khen 啌看
Khong khen: TTĐ, TVHXH là dộng khen 𠰩看 (dộng: tâu lên vua) không phù hợp với khúc nhạc từ ca ngợi chiến thắng, Nguyên tác: Bình Hoài tụng 平淮頌 (còn gọi là Hàn bi 韓碑, là bi văn do Hàn Dũ thời Đường soạn để ghi nhớ và ca tụng nhà Đường đã chiến thắng, tiêu diệt Tiết độ sứ Ngô Nguyên Tế cát cứ Thái Châu. Bản TV là ngợi khen 𡅷𠸦, LH là tiếng khen 㗂𠸦, IK là lừng khen 㖫 𠸦 cũng hợp nghĩa nhưng gượng ép, âm hưởng không thuận, chúng tôi thấy bản CTĐ chép là khong khen 啌𠰙 là phù hợp nhất (bài phiên âm La tinh Chinh phụ ngâm của họ Phan Huy (Bị khảo) cũng là khong khen), khong khen là từ cổ nghĩa cũng như ngợi khen. “khong khen” chỉ thấy được dùng trước thế kỷ XIX, thời Lê –Trịnh như ở bài C (Bị khảo) câu 412: “Cung Ương hiến quắc rạng nhờ khen khong (khong khen)” và Tân biên Truyền kỳ mạn lục 新編傳奇漫錄: “Vua khong khen hơn một giờ,” Thiên Nam ngữ lục ngoại kỷ 天南語綠外紀: “Vua thường nghĩ ngợi khong khen gái màu” (Nguyễn Quang Hồng); Thiên Nam Minh Giám 天南明監: “Khá khong khen Hiến Từ có đức”; Hoa tiên ký 花箋記 (nguyên tác): “Đệ trình ông xiết khong khen.” Đây cũng là bằng chứng góp phần xác định bản Chinh phụ ngâm hiện hành là của Đoàn Thị Điểm (1705-1748).
Ngoài ra có thể kể thêm một vài từ ngữ cổ (hay cách diễn đạt cổ) có thể góp phần vào việc chứng minh Đoàn Thị Điểm là dịch giả bản diễn âm Chinh phụ ngâm hiện hành: Thê noa: câu 14: “Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.” Chữ gốc Hán thê noa 妻孥 từ Nguyên tác nghĩa là vợ và con. Cách dùng thê noa 妻孥 (không diễn âm, dịch sang tiếng Việt) ngoài bản diễn âm Chinh phụ ngâm hiện hành ra không thấy trong các bản Nôm Chinh phụ ngâm khác. Các văn bản Nôm cổ cũng không thấy xuất hiện. Tuy nhiên, tự vị Béhaine có ghi nhận “thê noa” vào khoảng năm 1772-1773, chứng tỏ “thê noa” đã thông dụng vào cuối thế kỷ XVIII.
Ngất nẻo: câu 46: “Kỵ sau còn ngất nẻo Trường Dương.” Việt-Bồ-La, Béhaine ghi nhận ngất là cao, xa vời vợi, “ngất nẻo” chỉ thấy xuất hiện ở các bản Nôm trước thế kỷ XIX như Phan Trần truyện 潘陳傳: “Đường đi ngất nẻo khơi chừng.” Vậy Ngất nẻo nghĩa là đường xa vời vợi, các bản IK, BC có lẽ thấy lạ nên sửa là khuất 屈 (các bản Quốc ngữ sau cũng theo vậy).
Khơi nẻo: câu 89: “Từ trẩy sang đông nam khơi nẻo.” Từ cổ “khơi nẻo” (nẻo đường xa xôi) là một cách diễn đạt “độc hữu” chỉ có ở bản diễn âm Chinh phụ ngâm hiện hành mà thôi (chắc vì thấy từ “khơi nẻo” khác thường nên bản LH sửa là “ngất nẻo” nhưng âm điệu không hợp). Chúng tôi vẫn chưa tìm thấy ở các bản Nôm hay Quốc ngữ sơ kỳ khác.
Bao ngờ: câu 116: “Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời.” “bao ngờ” chỉ thấy ở các bản Nôm trước thế kỷ XIX như bài F (Bị khảo) câu 53: “Bao ngờ quyên đã giục hè”; Phan Trần truyện: “Bao ngờ quả kiếp xui nên,” Bao ngờ, từ cổ nghĩa là chẳng ngờ, nào ngờ, vì không hiểu nghĩa cổ nên các bản Nôm, Quốc ngữ sau đổi là “ai ngờ,” “nào ngờ.”
Diễn khơi, câu 149: “Thử tính lại diễn khơi ngày ấy.” “diễn khơi” (xa xôi cách trở) theo BK cũng có ở Bài C: “Diễn khơi Hán Thủy rạng soi Khuê triền” ngoài ra hầu như không thấy ở các văn bản Nôm khác, tuy vậy theo Vương Lộc, ở truyện Lưu nữ tướng (khoảng cuối thế kỷ XVIII) có câu: “Lan bằng cố nghĩa còn khơi diễn” (khơi diễn đảo từ diễn khơi).
Buồn muôn, câu 199: “Buồn muôn nói chẳng nên lời” Bản chính, TVHXH là tỉnh 醒, buồn tỉnh thì vô nghĩa. Các bản LH, CTĐ là muộn 悶 (buồn, sầu), đọc biến âm là “muôn;” TV, IK sửa là rầu 油 cho dễ hiểu. Chúng tôi chọn từ cổ “buồn muôn” với nghĩa là buồn sầu muôn vàn, theo BK, bài C cũng có “buồn muôn” ở câu 275: “Buồn muônthở vắn than dài, theo Nguyễn Quang Hồng “buồn muôn” (muôn ký âm là 門, ) có ở Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh 佛說大報父母恩重經經: “Áng nạ mảng hay, thương khóc buồn muôn;” Thiên Nam ngữ lục ngoại kỷ 天南語綠外紀: “Làm trêu phụ nữ buồn muôn”. “buồn muôn” là từ cổ chỉ xuất hiện ở các văn bản Nôm thế kỷ XVIII trở về trước, không thấy xuất hiện vào thế kỷ XIX.
Châu chan: câu 206: “Gương gượng soi lệ lại châu chan.” “châu chan” theo Béhaine, Mặt châu chan: mặt u sầu, thảm khốc, ngầm hiểu là đầm đìa nước mắt. Châu chan cũng có ở bài B (BK) câu 314: “ Biết mùi ly biệt châu chan dường này” và thường thấy ở các bản Nôm trước thế kỷ XIX như Phan Trần truyện: “Châu chan má phấn, tằm quanh khúc vàng,” Hoa Tiên ký: “Lành lòng thấy khách châu chan.” Do không hiểu nghĩa cổ nên các bản Nôm, Quốc ngữ sau đổi là “chứa chan” như bản IK chép là chứa 𤀞, chứa chan.
Đòi nau: câu 330: “Thì tiết lành lầm lỡ đòi nau.” “đòi nau” chỉ thấy ở các bản Nôm trước thế kỷ XIX như bài C (Bị khảo), câu 112: “Vì chàng đũa ngọc sụt sùi đòi nau;” Hồng Đức quốc âm thi tập 洪德國音詩集 (theo Nguyễn Quang Hồng): “Dói dói đòi nau quặn ruột rà;” Phan Trần truyện: “Lạnh lùng án tuyết, đoạn trường đòi nau;” Hoa tiên ký: “Nỗi riêng riêng chạnh, đòi nau một mình.” Vậy có thể cho “đòi nau” là nhiều phen đau xót. Do không hiểu nghĩa cổ nên bản TV đổi thành “xiết bao.”
Tiểu kết Gần một thế kỷ qua, bản diễn âm Chinh phụ ngâm nổi tiếng, hiện hành qua nhiều công trình biên khảo của Hoàng Xuân Hãn, Lại Ngọc Cang, Nguyễn Văn Xuân… dù rất sâu rộng, có nhiều khám phá, tranh luận nhưng cuối cùng, vẫn không thể chính thức xác nhận chủ quyền sáng tác cho Phan Huy Ích. Do đó,lẽ đương nhiên tác quyền bài diễn âm Chinh phụ ngâm khúc vẫn thuộc về Đoàn Thị Điểm như xưa nay vẫn truyền tụng.
Bút chứng không chỉ là ở bản Chinh phụ ngâm bị lục do nhà tàng bản Long Hòa khắc in năm Nhâm Dần (1902), đã được Vũ Hoạt đã khẳng định là do Phu nhân Đoàn Thị Điểm, làng Trung Phú, huyện Văn Giang diễn âm nhưng trước đó, còn có Hải Châu Tử – Nguyễn Văn San (1808 – 1883) qua Quốc văn tùng ký 國文叢記, Trương Vĩnh Ký (1887) với Chinh phụ ngâm đã từng xác nhận tên tuổi của Đoàn Thị Điểm là tác giả bản diễn âm Chinh phụ ngâm nổi tiếng. Ngoài ra từ nửa đầu thế kỷ XX các soạn giả phiên âm Chinh phụ ngâm sang chữ Quốc ngữ như Cao Đình Nam (1926), Nguyễn Đỗ Mục (1927), Sở Cuồng Lê Dư (1929), Nguyễn Quang Oánh (1930), Bùi Văn Lăng (1943), Tôn Thất Lương 1950, Lê Thước (1957)…cũng đều xác nhận Đoàn Thị Điểm là dịch giả Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn.
Nối tiếp các nhà biên khảo Biệt Lam, Thuần Phong, Phạm Văn Diêu, Lê Hữu Mục, Nguyễn Thạch Giang, Trần Thị Băng Thanh…, mới đây chúng tôi đã phát hiện thêm những bằng chứng về chữ húy (Kỳ 祁, Sâm 森, Đàm 潭, Diêu 祧) và đến nay chúng tôi đã dẫn ra những từ cổ (năng nổ, me, ba xòa, bồ chì, giăng văng, bui, khong khen…) từ trong các bản Nôm Chinh phụ ngâm (khắc in, chép tay) còn lại, thuộc thế kỷ XVIII triều đại Lê -Trịnh (1533 – 1789) và cũng chính là thời đại của Đoàn Thị Điểm (1705-1748). Những phát hiện quan trọng này đã góp phần chứng minh chắc chắn, khẳng định Hồng Hà nữ sĩ – Đoàn Thị Điểm chính là dịch giả bản diễn âm Chinh phụ ngâm nổi tiếng hiện hành chứ không phải là Phan Huy Ích (1751 – 1822) như các yêu sách, quyết đoán của Phan Huy Chiêm, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Xuân…gần một thế kỷ qua.