Kinh tế là gì?

by Tim Bui
Kinh tế là gì?

LÝ THÀNH PHƯƠNG

Khi con người bắt đầu sống tập trung thành những xã hội, họ có khuynh hướng xây dựng những thành bang (city-state). Ở bên ngoài thành bang là những vùng đồng ruộng để sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, còn bên trong thành bang thì có những hoạt động thủ công nghiệp như sản xuất quần áo, mũ nón, giày dép, vật liệu xây dựng, và đồ dùng trong nhà. Ngoài ra bên trong thành bang còn là nơi có những hoạt động mua bán và trao đổi hàng hóa cũng như những dịch vụ tiện ích khác phục vụ đời sống con người.

Khái niệm kinh tế bắt đầu bằng những hoạt động sản xuất, phân phối, và tiêu thụ sản phẩm cũng như cung cấp các loại dịch vụ cần thiết cho cuộc sống.

Ở phương Đông, dưới ảnh hưởng của nền văn minh Hoàng Hà, khái niệm kinh tế xuất hiện một cách không rõ ràng trong khoảng thời gian của các triều đại phong kiến và quân chủ ở Trung Quốc từ những năm đầu Công nguyên qua thành ngữ “kinh bang – tế thế” dịch qua tiếng Việt là “trị nước – giúp đời.

Vấn đề trị nước là hoạt động của giai cấp cầm quyền, thiên về lĩnh vực chính trị hơn, không có liên hệ mấy với khái niệm kinh tế. Còn vấn đề giúp đời thì nhìn qua lịch sử của Trung Quốc, giới thống trị thường chỉ thu thuế của dân để duy trì bộ máy cầm quyền và cung cấp tiện nghi cho giai cấp quý tộc. Chuyện xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở và dịch vụ tiện ích cho người dân thường chỉ là thứ yếu. Nói chung ý nghĩa của danh từ kinh tế trong tiếng Trung Quốc “trị nước – giúp đời” không mô tả đúng hoạt động kinh tế của xã hội. Danh từ kinh tế và định nghĩa của nó được người Nhật dịch từ tự điển Oxford của Anh vào thế kỷ thứ 19 và sau đó dịch qua tiếng Hoa sau này.

Còn ở phương Tây, trong sự phát triển của nền văn minh Hy Lạp, khái niệm kinh tế bắt đầu bằng cụm từ “household management” đặt ra bởi triết gia Aristotle vào thế kỷ thứ 4 Trước Công Nguyên (TCN,) có nghĩa là quản lý gia đình. Khái niệm này có hàm ý là mỗi gia đình phải làm cái gì đó để sinh sống, chẳng hạn như làm ruộng, làm nghề thủ công, xây dựng, hoặc buôn bán để có lợi tức hầu nuôi sống gia đình.

Xã hội là tập hợp của nhiều gia đình. Những sinh hoạt quản lý gia đình như vậy góp phần vào việc sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm, và cung cấp dịch vụ. Những sinh hoạt này là những yếu tố căn bản nhất của hoạt động kinh tế trong thời cổ. 

Cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra ở nước Anh vào thế kỷ thứ 18 đã làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế cổ. Với các máy móc được phát minh và sử dụng trong công nghiệp, của cải vật chất được sản xuất dồi dào hơn, nhiều hoạt động kinh tế cao cấp hơn từ từ xuất hiện như ngoại thương, công nợ, hợp đồng, bảo hiểm, ngân hàng, và nhiều thứ nữa. 

Vào thời điểm này ở Âu châu đã xuất hiện những kinh tế gia có công hệ thống hóa khái niệm kinh tế mở đầu cho khoa kinh tế học ngày nay như Adam Smith, David Ricardo, và Robert Malthus.  Danh từ “economic” dịch qua tiếng Việt là “kinh tế” chính thức xuất hiện trong tự điển Oxford của Anh vào thế kỷ thứ 19.

Cho đến ngày nay thì với sự tiến hóa của xã hội, con người càng ngày càng văn minh hơn, những hoạt động kinh tế càng được mở rộng hơn với các khái niệm mới như tín dụng, tài chính, chứng khoán, và toàn cầu hóa.

Căn cứ theo các sách kinh tế học ở Mỹ, danh từ kinh tế được định nghĩa như sau: “Kinh tế học là môn học nghiên cứu cách thức mà xã hội sử dụng những nguồn tài nguyên khan hiếm (bao gồm cả vật lực và nhân lực) để sản xuất ra của cải vật chất và phân phối chúng trong cộng đồng xã hội.” Nghiên cứu kinh tế là để trả lời những câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? Mục tiêu của kinh tế là cải thiện sinh hoạt của người dân để tạo cho họ có cuộc sống có phẩm chất cao nhất có thể được.

Ngày nay khoa kinh tế học chia làm hai loại nghiên cứu là kinh tế vi mô (microeconomics) và kinh tế vĩ mô (macroeconomics). Kinh tế vi mô nghiên cứu và phân tích các hành vi kinh tế  của người tiêu dùng, các công ty thương mại, và của chính phủ. Kinh tế vĩ mô nghiên cứu các vấn đề tổng hợp ở phạm vi quốc gia như chỉ số GDP, tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, và các chính sách của chính phủ.

Quá trình phát triển kinh tế

Khi con người bắt đầu sống tập trung dọc những con sông lớn thì chuyện sản xuất nông nghiệp là hoạt động chính yếu để cung cấp thực phẩm cho xã hội. Vào thời điểm đó, sản xuất nông nghiệp có tính chất địa phương tự cung – tự cấp. Đồng thời với nông nghiệp, những hoạt động thủ công nghiệp để cung cấp dụng cụ nông nghiệp cũng như những vật dụng tiêu dùng khác cho cuộc sống cũng từ từ được hình thành. Hoạt động trao đổi hàng hóa bắt đầu bằng các chợ phiên hình thành một cách tự nhiên, dùng những đơn vị tiền tệ thô sơ nhất như da dê ở phương đông hoặc lúa mạch ở phương Tây.

Khi xã hội phát triển thêm một bước thì bắt đầu có sự phân công lao động. Mỗi địa phương, với đặc điểm về tài nguyên, địa lý, khí hậu… tập trung sản xuất những đặc sản của họ và trao đổi với các địa phương khác trong phạm vi quốc gia. Tiền tệ cũng bắt đầu được cải tiến theo để đáp ứng với nhu cầu. Lúc này chính quyền dùng những kim loại quý hiếm như đồng, bạc, rồi vàng để làm đơn vị tiền tệ. Sau đó là tiền giấy (với vàng làm thế chân) được sử dụng rộng rãi một cách đồng bộ ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc dưới thời nhà Tống vào thế kỷ thứ 13.

Hoạt động ngoại thương đã bắt đầu manh nha từ những thế kỷ trước Công nguyên qua Con đường tơ lụa nối từ Trung Quốc đến tận Âu châu. Những hoạt động này dần dần được quy mô hơn qua những con đường biển bắt đầu bằng những chiếc thuyền buồm, rồi tàu sắt, và bây giờ là những chiếc tàu hiện đại với những container kiên cố, và thậm chí cả máy bay. Tiền tệ cũng được cải tiến theo với những hình thức ngân hàng, tín dụng, tiền điện tử, và nhiều hình thức trao đổi khác.

Các kinh tế gia cho rằng các hoạt động kinh tế như sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, giá cả bao nhiêu, và nhắm vào đối tượng nào đều bị chi phối bởi luật “cung và cầu” có nghĩa là hễ xã hội có nhu cầu gì thì sẽ có một lực lượng lao động nhảy vào để cung cấp cho nhu cầu đó hầu kiếm ra lợi nhuận.

Trước khi các cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra thì đại đa số lực lượng lao động nằm trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp. Xã hội phân chia thành ba thành phần là quý tộc, địa chủ, và nông dân cũng như cách phân chia ở Việt Nam thời phong kiến là “sĩ-nông-công-thương” theo thứ tự ưa chuộng của xã hội thời đó.

Khi các cuộc cách mạng bùng nổ thì của cải vật chất được sản xuất dồi dào hơn. Với sự góp sức của công nghiệp, nông nghiệp được cơ giới hóa làm cho việc sản xuất được dễ dàng và hiệu quả hơn. Điều này làm cho nhu cầu lao động trong nông nghiệp càng ngày càng giảm.

Trong khi đó các thành thị với các nhà máy sản xuất máy móc và hàng tiêu dùng cần một số lượng ngày càng lớn hơn về nhân công. Hệ quả tất yếu là nhiều người nông dân bỏ ra thành thị và trở thành công nhân trong các nhà máy. Một hình thức sản xuất mới xuất hiện mà các kinh tế gia gọi là tư bản. Hai giai cấp mới được hình thành là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.

Trong thời kỳ phôi thai của xã hội tư bản, giai cấp tư sản có khuynh hướng bóc lột giai cấp công nhân. Không những vậy, những chuyện buôn bán nô lệ từ Phi châu đến làm nô lệ cho các đồn điền ở châu Mỹ rất phổ biến. Và thậm chí các các quốc gia tư bản vượt đại dương xâm lược các quốc gia chậm tiến khắp nơi trên thế giới để vơ vét tài nguyên và sức lao động của các dân tộc nhược tiểu.

Các cuộc cách mạng dân chủ lần lượt diễn ra ở Âu châu, người dân bắt đầu có tiếng nói trong chính quyền do dân bầu ra. Nhân quyền bắt đầu được đề cao và quan hệ giữa người và người dần dần được cải thiện. Sau đó thế giới trải qua hai cuộc đại chiến, những quốc gia tư bản tiên tiến từng làm bá chủ thế giới lại bị các quốc gia theo chủ nghĩa Phát xít mới nổi lên chiếm đóng. Vì vậy sau hai cuộc chiến tranh này, họ thấm thía hoàn cảnh của một dân tộc bị trị như thế nào. 

Vấn đề nô lệ sau đó được xóa bỏ ở Mỹ. Người nô lệ gốc Phi châu dần dần được bình đẳng với những người da trắng ở Mỹ với đầy đủ các quyền tự do mà những người khác có được. Thậm chí trong thời kỳ cận đại, một người Mỹ gốc Phi còn được bầu làm tổng thống nước Mỹ. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Nam Phi cũng chấm dứt với sự thắng cử của một tổng thống người da đen. Và các đế quốc thực dân cũng từ từ trả lại độc lập cho các thuộc địa của họ bằng hình thức ôn hòa hay bạo động ở một vài nơi.

Đặc biệt là mối quan hệ giữa chủ và thợ cũng được cải tiến đến mức lý tưởng nhất. Người công nhân được chính phủ và công đoàn bảo vệ với sự quy định mức lương tối thiểu để bảo đảm cuộc sống, quy chế nghỉ lễ, nghỉ bệnh, tiền thất nghiệp, tiền hưu bổng… Công ty cũng có những chính sách để khuyến khích công nhân làm việc tốt và trả lương đúng mức với sự cống hiến của họ như tiền làm việc ngoài giờ, huê hồng cuối năm, và cho họ chứng khoán của công ty sau một thời gian làm việc.

Hình thức kinh tế này gọi là kinh tế thị trường. Nó luôn được tác động bởi lực cung và cầu và có sự hỗ trợ của chính quyền như một trọng tài để điều khiển hướng đi của kinh tế cho hợp lý và bảo vệ lợi ích của người làm việc. 

Kinh tế thị trường với thể chế chính trị dân chủ được phát triển tốt nhất ở Mỹ ngày nay. Người dân sống trong một môi trường kinh tế mà nếu có tài năng, thì họ có thể phát huy sáng kiến và trở nên giàu có. Những người khác thì luôn có cơ hội, ít nhất thì cũng có một công ăn việc làm vừa ý và xây dựng một cái nhà cho gia đình họ. Giáo dục từ lớp 1 đến lớp 12 hoàn toàn miễn phí. Giáo dục đại học thì nếu lợi tức gia đình khá giả thì tự túc, nếu gia đình không đủ khả năng thì chính phủ sẽ giúp một phần hay thậm chí toàn phần của chi phí đại học. Môi trường thiên nhiên được chính phủ kiểm soát khá tốt nên được đánh giá là sạch sẽ và tiến bộ.

Trong thời kỳ đầu phát triển của kinh tế tư bản, đại đa số chính trị của các quốc gia theo khuynh hướng này vẫn còn theo hình thức quân chủ chuyên chế. Giới quí tộc đứng sau lưng giai cấp tư sản mới nổi lên bóc lột sức lao động giai cấp công nhân. Phần lớn lợi nhuận về tay của giới tư sản trong khi đời sống của những người công nhân thì rất bần cùng.

Vào thế kỷ thứ 19, chủ thuyết cộng sản được hai nhà triết học xã hội nổi tiếng, trước là Friedrich Engels và sau đó là Karl Marx, đề xướng phong trào của giai cấp vô sản thành lập công đoàn đấu tranh chiếm lĩnh các nhà máy rồi sau đó chiếm lấy chính quyền. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giai cấp công nhân sẽ làm chủ các hãng xưởng và cùng nhau làm chung hưởng chung, loại bỏ lợi nhuận của giai cấp tư sản. Mặc dù đề ra phương thức để người công nhân làm cách mạng chiếm lấy nhà máy và chính quyền, nhưng Karl Marx lại không chỉ ra phương án kinh tế cụ thể sau khi cuộc cách mạng thành công thì giai cấp công nhân sẽ làm thế nào để xây dựng kinh tế.

Người vận dụng lý thuyết đấu tranh này đầu tiên là Vladimir Lenin ở Nga. Vào lúc đó nước Nga theo chủ nghĩa quân chủ chuyên chế với một nền kinh tế lạc hậu so với các quốc gia tiên tiến khác ở Âu châu. Nga hoàng lại đưa nước Nga vào trận đại chiến thế giới thứ nhất làm tiêu hao của cải và hàng triệu sinh mạng, đẩy dân Nga vào tình trạng bần cùng khốn khổ. Điều này làm cho phong trào đấu tranh của đảng cộng sản dẫn đầu bởi Lenin có cơ hội phát triển mạnh. Cuộc cách mạng tháng 10, năm 1917 (theo lịch Nga; tức 7-11 dương lịch) thành công đã đưa nước Nga trở thành nước cộng sản đầu tiên trên thế giới.

Với những điều kiện khó khăn như phải đối phó với tàn dư của Nga hoàng, sự xâm lược của các quốc gia lân cận đả kích chủ thuyết cộng sản vì chủ thuyết này là để lật đổ giai cấp tư sản, những hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất, và điều kiện kinh tế lạc hậu ở Nga, việc mà Lenin có thể làm được là thành lập được một Liên bang Xô Viết bao gồm nước Nga và 15 nước nhỏ ở chung quanh nước Nga, và một một hạ tầng cơ sở vật chất để phát triển quốc gia.

Lenin qua đời năm 1924, sau 7 năm mày mò xây dựng một quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản. Người kế thừa là Stalin.

Stalin thành lập một nền chính trị độc tài do đảng cộng sản cầm quyền. Kinh tế dưới thời Stalin là một hình thức kinh tế hoạch định sắt máu. Nền kinh tế này chối bỏ quyền tư hữu của người dân. Tất cả tài sản đều bị quốc doanh hóa với các công xưởng, nông trường, và thương mại do đảng cộng sản qui định và tổ chức.

Với mô hình kinh tế như vậy, Stalin gặt hái được ít nhiều thành quả so với thời kỳ phong kiến của Nga hoàng. Vào năm 1939 nước Nga đi vào cuộc Đại chiến thế giới thứ hai. Vào lúc đó lực lượng Phát xít của Đức Quốc Xã dưới sự lãnh đạo của Hitler trỗi dậy, có ý đồ thôn tính cả Âu châu, đặc biệt là Liên bang Xô Viết để chiếm lấy nguồn tài nguyên dồi dào và dập tắt phong trào cộng sản đang phát triển mạnh, là đối thủ của chủ nghĩa Phát xít.

Mặc dù với một lực lượng quân sự cực kỳ hùng mạnh, nhưng cuối cùng Đức Quốc Xã đã thua cuộc và đầu hàng phe Đồng Minh, trong đó có Nga. Với mục tiêu chiếm lấy những tinh hoa của nước Đức, Hồng quân Nga đã nhanh chân tiến vào Bá Linh trước lực lượng của Anh-Mỹ. Với chiến dịch này, Liên Xô lấy được nhiều của cải vật chất, khu kỹ nghệ, trung tâm nghiên cứu vũ khí, và nhiều nhà bác học của Đức. Nhờ vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô trở mình thành một nền kinh tế-kỹ thuật hiện đại vào bậc nhất thế giới ngang hàng với Hoa Kỳ.

Với sự trợ giúp của Liên Xô, nhiều nước cộng sản mới được thành lập bao gồm hàng chục nước ở Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, và Cuba. Những nước này đều mô phỏng theo mô hình kinh tế hoạch định cứng rắn như nước Nga.

Thời kỳ này gọi là thời kỳ Chiến tranh lạnh. Thế giới bắt đầu phân chia thành hai phe đối địch với nhau. Một phe lãnh đạo bởi Liên bang Xô Viết với các đảng cộng sản độc tài cầm quyền và với nền kinh tế hoạch định cứng rắn, và có ý đồ nhuộm đỏ cả thế giới. Một phe dẫn đầu bởi Hoa Kỳ với chủ trương chính trị dân chủ và với nền kinh tế thị trường, cố gắng dập tắt sự lan rộng của chủ thuyết cộng sản vào quốc gia họ cũng như những phong trào cộng sản ở những quốc gia khác.

Nền kinh tế của các quốc gia theo chủ thuyết cộng sản dần dần lộ ra các điểm yếu. Chính sách dựa trên giai cấp vô sản không đủ kiến thức và kinh nghiệm cầm quyền đã không làm tốt vai trò quản trị kinh tế. Sự từ chối quyền tư hữu của người dân với quan điểm làm chung – hưởng chung đã làm cho người dân không có nỗ lực và phát huy sáng kiến. Vì vậy, sau mấy mươi năm thực thi chính sách kinh tế theo mô hình cộng sản, các quốc gia này chỉ thấy nghèo đói, lạc hậu, mất tự do so với các quốc gia theo mô hình tư bản. Cuối cùng thì mô hình kinh tế cộng sản bị phá sản vào năm 1991 khi lãnh tụ đảng cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev tuyên bố hủy bỏ mô hình cộng sản.

Nhận thức được sự thành tựu của các nước theo chủ nghĩa tư bản là hình thái kinh tế thị trường, các quốc gia từng theo cộng sản như Trung quốc, vội vàng chuyển hướng. Nhưng khác với các nước tư bản theo phương thức chính trị dân chủ, các quốc gia này vẫn giữ hình thức chính trị do đảng cộng sản cầm quyền. Một mô hình kinh tế mới được thành hình gọi là kinh tế tư bản nhà nước. Hiện nay thành quả của hình thức kinh tế mới này tuy mang lại nhiều của cải vật chất hơn nhưng chất lượng cuộc sống của người dân rất kém, vấn đề ô nhiễm môi trường thì cực kỳ nghiêm trọng do sự quản lý thiếu tính khoa học và tệ nạn tham nhũng gây ra. Và hình thái làm kinh tế kiểu tư bản nhà nước, điển hình là Trung Quốc, bị các quốc gia tiến bộ lên án là hoạt động kinh tế gian thương bất chánh, còn gọi là kinh tế tư bản thân hữu, lợi ích nhóm (Irony capitalism). 

Vậy thì mô hình kinh tế nào là lý tưởng nhất? Theo thiển ý của tác giả thì nên để kinh tế thả lỏng theo tự nhiên, có nghĩa là để luật “kinh tế cung và cầu” dẫn dắt các hoạt động kinh tế của xã hội. Nhiệm vụ của chính quyền là nên tạo một hạ tầng cơ sở tốt nhất như điện, nước, đường xá, cầu cống, bến cảng các loại.. để người dân có điều kiện phát huy tài năng và sáng kiến. Chính quyền nên có những kinh tế gia có kiến thức và kinh nghiệm để hướng dẫn người dân làm các loại kinh tế. Chính quyền chỉ nên đóng vai trò trọng tài hơn là làm kinh tế kiểu quốc doanh như trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa hay hình thái tư bản nhà nước kiểu Trung Quốc.

Thương mại quốc tế

Trung Quốc là nước phát minh ra tơ lụa đầu tiên trên thế giới. Những sản phẩm tơ lụa đã được nhiều thương nhân mạo hiểm chuyển vận ra khỏi Trung Quốc ngay vào thời nhà Tần (Qin) vào thế kỷ thứ 3 TCN. Cái tên Tần (Qin) được phiên âm thành Chin trong tiếng Latin và sau này trở thành China trong tiếng Anh.

Dưới thời nhà Hán, vào năm 138 TCN, với mục đích muốn tìm được những đồng minh nhằm khống chế bộ lạc Hung Nô, vua Hán Vũ Đế sai Trương Khiên đi về phía Tây với chiếu chỉ ngoại giao trong tay đến nước Đại Nhục Chi (nằm giữa Trung Hoa và Ấn Độ), nhưng không may Trương Khiên lại bị người Hung Nô bắt giữ. Sau 10 năm bị giam lỏng, Trương Khiên trốn khỏi trại và vẫn tiếp cuộc hành trình về Trung Á, Tây Vực. Năm 126 TCN, Trương Khiên trở về nước. Tuy thất bại trong sứ mệnh ngoại giao, nhưng với những kiến thức và thông tin thu được, ông đã viết cuốn sách “Triều dã kim tài” trong đó đề cập đến những vùng đất ông đã đặt chân tới, vị trí địa lý, phong tục tập quán, sản vật, hàng hóa và đặc biệt là tiềm năng giao thương. Quyển sách này đã kích thích mạnh các thương gia Trung quốc. Sau đó Con đường tơ lụa dần được lớn mạnh, người Trung Hoa mang vải lụa, gấm vóc, sa, nhiễu… đến Ba Tư (Iran) và La Mã đồng thời những doanh nhân các vùng khác cũng tìm đường đến với Trung Hoa.

Có thể nói, con đường tơ lụa bắt đầu từ kinh đô Trường An của Trung Quốc, vượt qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hi Lạp, qua Địa Trung Hải và đến tận Âu châu. Hành trình này dài hơn 6.000 km qua nhiều đồi núi và sa mạc với phương tiện vận chuyển chánh là lạc đà.

Thời kỳ đầu, những bậc đế vương và những nhà quý tộc của La Mã thích lụa Trung Hoa đến mức họ cho cân lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tương đương. Truyền thuyết kể rằng Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra lúc đó chỉ diện váy lụa Trung Quốc mà thôi. 

Dưới thời nhà Đường vào thế kỷ thứ 7, do thấy được giá trị của con đường giao thương Đông – Tây này, các vị hoàng đế đã ban hành hàng loạt những chiếu chỉ nhằm khuyến khích thương mại và cũng từ đó, những nhà truyền giáo phương Tây đã bắt đầu tìm đến với phương Đông. Con đường tơ lụa dưới triều Đường đã trở thành một điểm nhấn rõ nét trong lịch sử thương mại thế giới.

Dưới triều Nguyên – Mông Cổ vào thế kỷ thứ 13, một người Ý nổi tiếng là Marco Polo đã lưu lạc đến Trung Quốc và làm quan ở đây 20 năm, sau đó ông trở về nước bằng Con đường tơ lụa. Ông cũng là người có đóng góp cho sự phát triển của mối giao thương Đông – Tây khi viết nên cuốn sách “Marco Polo du ký” kể về toàn bộ quá trình lưu lạc đến phương Đông của mình trong đó có đề cập đến những chuyến hàng đầy ắp sản vật trên Con đường tơ lụa. 

Bắt đầu từ thế kỷ thứ 7, Quảng Châu đã được xem là nơi khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển. Trước tiên là các thương gia Ả Rập và sau đó là Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan lần lượt kéo đến giao lưu buôn bán và trao đổi. Quảng Châu tràn ngập hàng hoá của nước ngoài và bản địa, Con đường tơ lụa trên bộ dần dần biến mất. Hồi chuông cáo chung của Con đường tơ lụa này vang lên cũng là lúc người Ba Tư đã dần học được cách làm tơ lụa của người Trung Hoa và việc trung chuyển tơ lụa từ đó giảm hẳn do người Ba Tư tự làm và bán trực tiếp cho La Mã chứ không nhập khẩu từ nước Trung Hoa nữa.

Những phát minh về thuyền buồm vào các thế kỷ sau đó khiến cho chuyện vượt biển được dễ dàng hơn. Các quốc gia nổi tiếng về hàng hải lúc đó như Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha muốn tìm một con đường biển ngắn hơn và có thể mang được nhiều hàng hóa hơn để thế cho con đường tơ lụa gian khổ trên đất liền. Những cuộc thám hiểm bởi Christopher Columbus và Vasco Da Gama đã khám phá ra châu Mỹ và sau đó cũng tìm được con đường biển đi đến Ấn Độ.

Khi các cuộc cách mạng công nghiệp lần lượt xảy ra ở Âu châu vào thế kỷ thứ 18, của cải vật chất được sản xuất dồi dào và dễ dàng hơn càng kích thích vấn đề ngoại thương. Với phát minh tàu sắt và máy hơi nước thay cho thuyền buồm, đã mở đầu thời kỳ hoàng kim của việc thông thương hàng hóa giữa các quốc gia trên thế giới.

Khuynh hướng thương mại ngày nay có tính chất toàn cầu hóa, có nghĩa là mỗi quốc gia vận dụng tài nguyên và sở trường của mình để cung ứng và trao đổi hàng hóa và dịch vụ với cộng đồng thế giới.

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/i-to-p/ly-thanh-phuong/

You may also like

Verified by MonsterInsights