LÝ THÀNH PHƯƠNG
Nhà Hậu Lê là một triều đại phong kiến Việt Nam, tồn tại sau thời Bắc thuộc lần thứ tư và đồng thời với nhà Mạc, nhà Tây Sơn trong một thời gian, trước nhà Nguyễn.
Nhà Hậu Lê do Lê Thái Tổ lập ra, được phân biệt với nhà Tiền Lê (980–1009) do Lê Đại Hành lập ra cuối thế kỷ thứ mười. Nhà Hậu Lê gồm có hai giai đoạn:
- Nhà Lê sơ (1428–1527): kéo dài 100 năm, bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn Trần Cảo, tự làm vua, lập ra triều đại mới và kết thúc khi quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc.
- Nhà Lê trung hưng(1533-1789): kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi Thượng tướng quân Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh lên ngôi, tức Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê; kết thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc dưới thời Thanh Cao Tôn.
Cách gọi nhà Hậu Lê bao gồm cả hai giai đoạn Lê sơ và Lê trung hưng. Đặc biệt, thời Lê Trung hưng tuy kéo dài nhưng các Hoàng đế nhà Lê mất thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Thời kỳ đầu gọi là Nam Bắc triều, nhà Lê và nhà Mạc chia đôi nước Đại Việt.
Khi nhà Mạc bị đánh bại phải chạy lên Cao Bằng (1592, tới năm 1677) thì công thần có công đánh Mạc là họ Trịnh đã nắm hết quyền hành. Công thần họ Nguyễn không thần phục họ Trịnh, ly khai ở phía nam, do đó phần lớn hậu kỳ thời Lê trung hưng, nước Đại Việt lại bị chia cắt bởi chúa Trịnh và chúa Nguyễn, gọi là thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh.
Chương này chỉ nói về thời kỳ Lê sơ.
Thời kỳ Lê sơ (1428–1527)
Lê Thái Tổ (1428 – 1433)
Sau mười năm kháng chiến chống quân Minh và giành được thắng lợi tuyệt đối, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, sử gọi là Lê Thái Tổ. Ông đổi quốc hiệu từ Giao Chỉ tồn tại dưới thời nhà Minh trở lại thành Đại Việt. Ông đóng đô ở Thăng Long, đổi kinh thành Thăng Long trở thành Đông kinh và đổi Tây Đô (Thanh Hóa) thành Tây Kinh, Tây Kinh về sau còn được gọi là Lam Kinh.
Thái Tổ chia nước ra làm năm đạo: Đông Đạo, Tây Đạo, Nam Đạo, Bắc Đạo và Hải Tây Đạo, trong đó Hải Tây đạo gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa. Kinh tế nhanh chóng được khôi phục. Dù mới hết chiến loạn, nhưng Thái Tổ hết sức quan tâm ngay đến giáo dục, ông cho mở lại Quốc Tử Giám, cho con cháu các quan viên và những người thường dân có khả năng vào học tập; mở nhà học và đặt thầy dạy nho học ở các phủ và các lộ.
Thái Tổ lên ngôi chưa lâu, thì ra tay sát hại những công thần quan trọng như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, và nhiều đại tướng quân có công trong việc thành lập nhà Lê.
Năm 1432, tù trưởng Đèo Cát Hãn nổi dậy, Thái Tổ sai hoàng tử Lê Tư Tề trấn áp. Tư Tề là con trưởng của Thái Tổ, vốn là người dũng mãnh, thiện chiến, ngay từ khi còn khởi binh Lam Sơn đã không ít lần lập được công lao, sau đó được phong làm Quốc vương. Nay khi cầm binh dẹp loạn, nhanh chóng họ Đèo phải ra hàng. Bấy giờ Thái Tổ hay đau ốm, mọi việc đều do Quốc vương xử lý.
Có thuyết cho rằng: Thái Tổ vốn nghi kỵ họ Trần, thấy Trần Nguyên Đán là người tôn thất nên diệt trừ đi. Quốc vương lại cùng phe với Nguyên Đán, vì thế làm mất lòng Thái Tổ. Sử chỉ ghi ngắn gọn là: “Quốc vương mắc chứng điên cuồng, giết bừa các tỳ thiếp, nên bị Thái Tổ giáng xuống thành Quận vương.”
Bấy giờ trong triều chưa định ai làm người kế ngôi, con trai thứ hai Lê Nguyên Long vốn là Lương quận công, được phong làm Hoàng thái tử.
Năm 1433, Lê Lợi mất, thọ 49 tuổi, trị vì được năm năm. Ông được truy thụy hiệu là là Thái Tổ Cao hoàng đế.
Thái tử Nguyên Long lên kế vị, tức Lê Thái Tông.
Lê Thái Tông (1433 – 1442)
Thái tử Nguyên Long lên ngôi lúc đó chỉ có 11 tuổi, lấy niên hiệu là Thái Tông. Bên cạnh ông có Đại tư đồ Lê Sát được ban quyền phụ chính. Lê Sát xuất thân từ võ tướng, là người Lam Sơn, tính tình nóng nảy, nhiều việc xử lý quá khắt khe, làm bừa và không cân nhắc. Quan đồng tri Bắc đạo là Bùi Ư Đài xin chọn những bậc kỳ lão vào cung giúp can gián ấu đế và đặt chức sư phó để chỉ huy trăm quan. Lê Sát thấy ý định đó đụng chạm đến quyền lớn đang trong tay mình, nên sai bắt Ư Đài tống giam, kết tội ly gián vua tôi. Dù Thái Tông không đồng tình nhưng Lê Sát vẫn tâu đi tâu lại bốn lần, ép Thái Tông khép tội Ư Đài. Thái Tông bất đắc dĩ phải lưu đày Ư Đài, nhưng từ đó càng ngày càng ghét Lê Sát.
Năm 1437 (lúc vua được 15 tuổi), Thái Tông ra chiếu chỉ: “Lê Sát tự chuyên giữ quyền bính, ghen người tài, giết Nhân Chú để tự ra oai của mình, truất Trịnh Khả để người ta phục, bãi chức của Ư Đài khiến đình thần không ai dám nói, đuổi Cầm Hổ ra nơi biên thùy để gián quan phải ngậm miệng. Xem những việc làm ấy đều không phải là đạo làm tôi. Nay muốn khép vào luật hình để tỏ rõ phép nước, song vì là đại thần cố mệnh, có công với nhà nước, đặc cách khoan tha, nhưng phải bãi chức tước.” Sau đó Thái Tông bắt giam người cùng phe Lê Sát là Đặng Đắc, cho Bùi Ư Đài được phục chức, triệu Bùi Cầm Hổ về kinh, cử Tư khấu Lê Ngân thay Lê Sát chấp chính.
Tháng Bảy năm đó, Thái Tông ra lệnh phế truất con gái ông là Nguyên phi Lê Ngọc Dao làm dân thường, rồi ra chiếu kết tội Lê Sát và những người cùng cánh, định xử chém đầu rao ở chợ. Tuy nhiên, do là công thần nên Lê Ngân và Bùi Cầm Hổ khuyên Thái Tông không nên chém, chỉ ban thuốc tự tử, Thái Tông nghe theo.
Trừ được Lê Sát, Thái Tông càng khắt khe trong số các công thần, trong tâm có ý trừ Tư khấu Lê Ngân. Bấy giờ Lê Nhật Lệ, con gái của Lê Ngân được phong làm Huệ phi nhưng không được sủng hạnh, Lê Ngân sai người phù thủy làm lễ ở nhà, đúc tượng vàng Quan Thế Âm để mong con gái được yêu thương. Thái Tông nghe đến, sai người vào nhà ông tra khảo, bắt được bọn phù thủy yếm và tượng vàng. Lê Ngân hoảng hốt vào triều, tâu sớ giải bầy, nhưng Thái Tông quyết xử tử, ban cho ông tự vẫn tại nhà như Lê Sát trước đây. Tuy nhiên cũng như Lê Sát, cả nhà ông chỉ bị lưu đày, con trai Lê Nho Tông bị buộc làm lính giữ cửa, không được trọng dụng.
Dẹp được quyền thần, Thái Tông chuyên tâm vào chính sự. Năm 1438 (lúc đó vua được 16 tuổi), Thái Tông chỉnh đốn việc thi cử các đạo. Lệ cứ năm năm một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Lại cho mở khoa cử, chọn tiến sĩ, ai đỗ đều được khắc tên vào bia đá Văn miếu, lệ khắc tên vào bia bắt đầu từ đây.
Năm 1439 (vua được 17 tuổi), Thái Tông thân chinh dẫn quân đi đánh các châu Phục Lễ (Lai Châu ngày nay). Bấy giờ bọn tù trưởng man di họ Cầm quấy nhiễu biên giới, nước Ai Lao nghe theo cũng cử ba vạn quân theo chúng cướp phá. Thái Tông đích thân dẫn sáu quân đi đánh, thắng lợi rực rỡ. Năm 1441, phản tặc tên Thượng Nghiễm làm loạn ở châu Thuận Mỗi, Nghiễm trước cậy vào Ai Lao nhiều lần làm loạn, Thái Tông đã từng cất binh nhưng do dâng phương vật nên tha về. Đến nay Thái Tông đem quân đến bắt sống được một viên tướng Ai Lao và vợ con; lại bắt được các con trai của Nghiễm, Nghiễm bèn ra hàng. Thái Tông dâng tứ báo thắng trận ở Thái Miếu.
Bấy giờ, sau khi Lê Thái Tổ mất, văn vật, chế độ, sách vở, lễ nhạc đều được khôi phục, điển chương văn vật rực rỡ. Các nước Java, Xiêm La, Tam Phật Tề, Chiêm Thành, Malacca vượt biển sang cống, bên trong bọn phản nghịch đều được dẹp yên, giáng đòn phạt đến nỗi không gượng dậy được. Thái Tông lúc đó chưa đầy 20 tuổi, nếu không phải nói thiên tư trời ban thì còn từ nào đủ hình dung.
Năm 1442, ngày 4/8, Thái Tông đi thăm trại Vải (Lệ Chi viên, nay thuộc huyện Gia Lương, Hà Bắc), thuộc khu dinh thự của Hành khiển Nguyễn Trãi, bỗng nhiên băng hà, khi đó hoàng đế chỉ tròn 20 tuổi. Việc này dẫn đến vụ án Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử, triều đình kết tội Hành khiển Nguyễn Trãi và thị thiếp là Nguyễn Thị Lộ, vì khi Thái Tông băng Thị Lộ đã luôn hầu bên cạnh, bấy giờ cho rằng Thị Lộ giết hoàng đế. Án đưa ra là tru di tam tộc, giết đến ba họ của Nguyễn Trãi.
Thái Tông được truy thụy hiệu là Thái Tông Văn hoàng đế.
Ngày 12/8, Thái tử Bang Cơ lên kế vị, tức Lê Nhân Tông. Nhân Tông lên ngôi lúc đó chỉ có 2 tuổi, mẹ là Thần phi Nguyễn Thị Anh được tôn làm Hoàng thái hậu, buông rèm nhiếp chính.
Lê Nhân Tông – Thái hậu Nguyễn Thị Anh (1442 – 1459)
Lê Nhân Tông lên ngôi còn thơ ấu, Nguyễn Thái hậu cùng các đại thần Nguyễn Xí, Lê Thụ, Trịnh Khả phụ chính cho Tân đế.
Thái hậu coi việc, theo các phép có sẵn từ đời trước, kinh tế, văn hóa tiếp tục được đi lên. Bấy giờ, Chúa Chiêm Thành là Bí Cai hai lần mang quân vây Hóa Châu. Tuy triều đình đã mấy lần phát binh, nhưng quân Chiêm vẫn chưa bỏ thói gây hấn. Vào năm 1446, Thái hậu sai Trịnh Khả, Lê Thụ, Lê Khắc Phục đi đánh, Bí Cai ra hàng, các tướng lập cháu Bí Cai là Quý Lai làm chúa Chiêm. Với chiến thắng huy hoàng này, quân Đại Việt tóm gọn được các cung phi của Bí Cai mà đem về kinh thành Đông Kinh.
Vào năm 1448, quốc gia Bồn Man (Lào) chịu nội thuộc vào Đại Việt. Thái hậu sáp nhập Bồn Man, trở thành châu Quy Hợp của Nhà nước Đại Việt. Ngoài ra, cũng trong những năm tháng Thái hậu chấp chính, Triều đình ban lệnh cho đào sông Bình Lỗ ở Thái Nguyên, mang lại thuận lợi cho việc giao thông vận tải.
Vào năm 1449, ở Chiêm Thành, Quý Lai bị em là Quý Do cướp ngôi. Quý Do sai sứ sang triều cống Đại Việt, nhưng Thái hậu từ chối không tiếp nhận lễ vật và phán: “Tôi giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, trẫm không nhận đồ dâng.” Sau khi buộc sứ phải mang trả lại lễ vật về Chiêm, Thái hậu truyền lệnh cho Đồng tri hữu tri sự Nguyễn Hữu Quang, Điện trung thị ngự sử Trình Ngự đem thư sang Chiêm Thành, với nội dung như sau: “Sự thực của các ngươi như thế nào thì phải sang trình bày cho rõ.”
Tháng Mười Một năm Quý Dậu (1453), Nhân Tông lên 12 tuổi, có thể tự coi chính sự, Thái hậu trả lại quyền chính cho ông rồi lui về ở cung riêng.
Khi tự mình ra coi chính sự, Nhân Tông tỏ ra là người độ lượng với các công thần khai quốc có tội bị xử tử trước đây, từ thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông đến khi Nguyễn Thái hậu chấp chính. Ngay khi ra cầm chính sự, ông ra nhiều chiếu chỉ biểu dương công lao của họ, hoặc trả lại của cải, ruộng đất cho con cháu họ. Ông khôi phục lại quan tước và ban cho con cháu Trịnh Khả (bị xử tử năm 1451) 100 mẫu ruộng; cấp 100 mẫu ruộng cho con cháu Lê Sát và Lê Ngân (bị xử tử năm 1437); trả lại điền sản trước đây cho con cháu Phạm Văn Xảo (bị xử tử năm 1430) và Trần Nguyên Hãn (bị xử tử năm 1429). Ông biểu dương công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi (bị xử tử năm 1442): Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng.
Ân đức của Nhân Tông nổi danh đương thời, ông chủ trương không quá hà khắc hình luật, trọng giáo dục, văn học, chế độ hiến chương triều đình, là người hiền minh sáng suốt, tuổi còn nhỏ mà là vị minh quân khó ai bì. Tuy hiền đức là vậy nhưng ông lại có kết cục bi thảm khi bị chính người anh lớn là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết chết vào năm 1459, lúc đó mới chỉ có 19 tuổi.
Lê Nghi Dân (1459 – 1460)
Là con trai trưởng của Lê Thái Tông mẹ là Dương chiêu nghi. Dương thị vốn là sủng phi của Thái Tông, về sau hành xử lỗ mãng mà bị phế làm thứ nhân. Nghi Dân trước đây vì mẹ được sủng ái nên được lập làm Hoàng thái tử, sau do mẹ thất sủng nên cũng bị phế, bị biếm đến vùng Lạng Sơn, với tước phong bấy giờ là Lạng Sơn vương. Vua Nhân Tông vốn nhân từ, đối đãi với anh em rất hậu, nên đối với Nghi Dân không phòng bị gì, đến đây bị Nghi Dân sai người lẻn vào cung và giết chết. Nguyễn Thái hậu cũng bị đem ra xử chết vào ngày hôm sau.
Theo một số nhà sử học, cũng như thần tích và các chuyện chép rải rác trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhân Tông vốn không phải con của Thái Tông Văn hoàng đế. Mẹ ông Nguyễn Thái hậu được cho là đã tư thông với Lê Nguyên Sơn, một người trong tôn thất họ Lê, tổ phụ của Thái Tông. Rất có thể trong quá trình trưởng thành, Nghi Dân đã được nghe nói về lời đồn này và quyết tâm đoạt ngôi của Nhân Tông.
Lạng Sơn vương Nghi Dân lên ngôi vào ngày 7/10, năm 1459. Tuy giết hại Nhân Tông nhưng Nghi Dân lại tha cho những người em khác, ông cải phong Lê Khắc Xương từ Tân Bình vương thành Cung vương Lê Tư Thành từ Bình Nguyên vương thành Gia vương.
Tháng Năm, năm 1460, các tể tướng đại thần là Đỗ Bí, Lê Ngang, Lê Thụ, Lê Ê bí mật bàn việc lật đổ Nghi Dân. Việc đó bị lộ, cả mấy người đều bị bắt giết. Nghi Dân thay đổi nhiều pháp chế của đời trước, dùng những người thân tín của mình vào triều nên nhiều cựu thần không bằng lòng.
Tháng Sáu năm đó, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Lê Nhân Quý, Trịnh Văn Sái, Nguyễn Đức Trung cùng bàn nhau làm binh biến lần nữa. Ngày 6/6, có buổi chầu sớm. Khi tan chầu, những người định làm binh biến ngồi ngoài cửa Sùng Vũ nơi Nghị sự đường. Nguyễn Xí phát động lệnh dẫn quân vào giết các bề tôi tin cẩn của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban ở Nghị sự đường. Lê Nhân Thuận chém chết Trần Lăng, giữ chặt quân cấm binh, đóng các cửa thành. Hơn 100 người phe cánh của Nghi Dân bị giết.
Nghi Dân Đế bị bắt, truất làm Lệ Đức hầu và bị thắt cổ chết khi mới 22 tuổi.
Bấy giờ, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Nguyễn Đức Trung đều nhất trí đưa Gia vương Tư Thành lên ngôi, kế thừa hoàng vị. Nhưng Nhập nội Thiếu úy Lê Lăng lại mời Cung vương, khi các đại thần đến mời Cung vương thì Vương nhất quyết từ chối, vì vậy Gia vương được tôn lên ngôi vị.
Ngày 26/6/1460, Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi, sử gọi là Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi. Ông chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều đình, nắm giữ binh quyền. Từ đây, Đại Việt bước vào thời kỳ cực thịnh.
Vụ án Lệ Chi Viên
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư:
“Ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch) vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sự xinh đẹp, có tài văn chương, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất.
Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 (âm lịch) mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Ngay sau khi thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt Nguyễn Trãi tru di tam tộc vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch) năm này.”
Vua Lê Nhân Tông, khi lớn lên, từng có ý kiến xem Nguyễn Trãi bị oan khi đọc sách Dư địa chí ông viết, nhưng vẫn cho rằng Nguyễn Thị Lộ là thủ phạm gây ra cái chết của vua cha Thái Tông. Vua Lê Thánh Tông thì chính thức ban chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi nhưng không nói tới Nguyễn Thị Lộ.
Trong giới sử học hiện nay, có nhiều ý kiến cho rằng: Nguyễn Thị Lộ đã bị triều đình nhà Lê đương thời (do thái hậu Nguyễn Thị Anh chấp chính cho vua nhỏ Lê Nhân Tông mới lên 2 tuổi) vu khống. Họ cho rằng chủ mưu vụ án giết vua Lê Thái Tông chính là Nguyễn Thị Anh, vợ thứ vua Lê Thái Tông.
Nguyễn Thị Lộ
Xuất thân
Nguyễn Thị Lộ sinh tại làng Hải Hồ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Về năm sinh của bà, có giả thiết cho là giữa năm 1400. Cha bà là Nguyễn Mỗ, làm nghề thầy thuốc. Nhờ tư chất thông minh, lại được cha cho đi học, nên bà sớm thông hiểu các kinh sách và lại biết làm thơ. Ngoài ra, bà còn nổi tiếng là một người xinh đẹp.
Làm vợ thứ Nguyễn Trãi
Sau khi cha đi phu bị quân Minh giết chết, bà cùng mẹ tần tảo nuôi dạy các em. Trong một lần lên kinh thành Thăng Long bán chiếu (làng Hải Hồ có nghề dệt chiếu nổi tiếng), Nguyễn Thị Lộ đã gặp Nguyễn Trãi.
Tương truyền hôm Nguyễn Trãi gặp cô gái bán chiếu trẻ đẹp Nguyễn Thị Lộ, ông đã xướng mấy câu thơ ghẹo:
Ả ở nơi nào, bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Không ngờ cô này cũng làm thơ họa lại:
Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Nguyễn Trãi yêu sắc, phục tài bèn dò hỏi gia cảnh rồi cưới Nguyễn Thị Lộ làm thiếp.
Cuối năm 1427, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng. Sang năm 1428, thủ lĩnh Lê Lợi lên ngôi vua (tức Lê Thái Tổ), thì Nguyễn Trãi được phong tước hầu. Nhưng rồi những mâu thuẫn nội bộ triều đình dẫn đến việc sát hại công thần (Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo), và bản thân Nguyễn Trãi cũng bị bắt giam. Tuy sau đó, ông được tha nhưng không còn được tin dùng như trước.
Làm Lễ nghi học sĩ
Năm 1433, Lê Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Nghe tiếng Nguyễn Thị Lộ, nhà vua cho vời bà vào cung ban chức Lễ nghi học sĩ, phụng chỉ để dạy dỗ cung nữ.
Ở cương vị này, bà đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được sử thần nhà Lê là Vũ Quỳnh khen là: “Thị Lộ đã cảm hóa được Lê Thái Tông, thuyết phục vua chăm chỉ đèn sách, lại giúp vua nhiều ý kiến để sửa trị nước”…
Năm 1439, Nguyễn Trãi và bà xin về ẩn ở Côn Sơn, nhưng đến năm sau thì cả hai lại được nhà vua mời ra giúp việc nước. Nhưng chỉ một năm sau đó (1442), giữa lúc vợ chồng bà đang gánh vác việc nước thì tai họa bỗng đổ ập xuống.
Bí ẩn Lệ Chi Viên
Cái chết của vua Thái Tông thật đột ngột và chắc chắn là có nhiều bí ẩn. Theo dư luận trong triều thời đó thì vua bị bệnh sốt rét, Thị Lộ đêm đó thì ở suốt đêm hầu hạ vua, và dùng độc dược để giết vua. Nguyễn Thị Lộ, một người được vua tin dùng như vậy, sao lại có động cơ giết vua. Hơn nữa, đã là quan trong triều, ai cũng biết tội thích vua là bị tru di tam tộc. Với những lập luận như vậy, có thể nói Thị Lộ, chắc chắn không phải là người hạ độc. Vậy còn có bàn tay nào khác đã gây ra thảm án này khiến Thị Lộ và gia đình Nguyễn Trãi phải bị hàm oan mà những vị vua thời sau của triều Lê này như Nhân Tông và Thánh Tông phải đứng ra giải oan cho họ.
Theo một số nhà sử học, cũng như thần tích và các chuyện chép rải rác trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhân Tông vốn không phải con của Thái Tông Văn hoàng đế. Mẹ ông Thái hậu Nguyễn Thị Anh được cho là đã tư thông với Lê Nguyên Sơn, một người trong tôn thất họ Lê, tổ phụ của Thái Tông.
Lê Nguyên Sơn, vốn thích xem hát, ở dinh thự của ông có một ban hát để lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ nhu cầu giải trí của ông. Có lần Thái Tông đến xem và gặp được cô đào Nguyễn Thị Anh, người thì đẹp, diễn xuất lại mê hồn, đã làm ông vua rung động. Thái Tông liền dời Thị Anh vào cung và phong làm thứ phi.
Lúc đó đương kim hoàng hậu là bà Dương Thị Bí, mẹ của thái tử Nghi Dân lúc đó chỉ có 2 tuổi. Không lâu sau thì bà Nguyễn Thị Anh sinh hạ hoàng tử Bang Cơ. Vua rất sủng ái bà Nguyễn Thị Anh, đã truất Hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thái tử của con bà là Lê Nghi Dân, lập Nguyễn Thị Anh làm Hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, Nguyễn Thị Anh tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ đã tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu ở ngoài thành. Bà Ngọc Dao nhờ vậy sống sót và sinh được hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).
Ngoài các suy đoán căn cứ vào sử sách, gần đây các nhà nghiên cứu nói trên đã tham khảo gia phả dòng họ Đinh là con cháu của công thần Đinh Liệt nhà Hậu Lê và phát hiện nhiều bài thơ của chính Đinh Liệt để lại (được công bố trong “Nhìn lại lịch sử” của họ). Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng viết theo kiểu ẩn ý, dùng phép nói lái để người đọc suy đoán rằng: Thái tử Lê Bang Cơ (tức vua Lê Nhân Tông) không phải là con vua Lê Thái Tông.
Trong nội dung các bài thơ đó cũng phù hợp với truyền thuyết về hai vị thái giám Đinh Phúc và Đinh Thắng, là người có trách nhiệm ghi lại ngày sinh, tháng đẻ cho hậu cung trong triều đình. Đinh Phúc và Đinh Thắng đã tiết lộ việc sinh thiếu tháng của hoàng hậu Thị Anh cho Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông. Có lẽ đây là động cơ đã khiến cho Nguyễn Trãi và Thị Lộ bí mật ra công để bảo vệ bà Ngọc Dao và hoàng tử Tư Thành, và đồng thời cũng treo ấn từ quan về Côn Sơn ở ẩn, để tránh họa sát thân.
Ngày 4 tháng 8 năm Nhâm Tuất (27 tháng 7 năm 1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt binh ở thành Chí Linh (Hải Dương). Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, là nơi từng ở của mình.
Rời Côn Sơn để về lại Thăng Long, ngày 4 tháng 8 nhà vua và đoàn tùy tùng đến Lệ Chi Viên (Gia Bình, Bắc Ninh). Theo sử cũ, thì nhà vua đã thức đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà. Liền sau đó, bà Lộ bị triều đình (do Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu) sai người bắt giam và tra khảo.
Vì chịu không nổi cực hình, Nguyễn Thị Lộ phải khai nhận. Án được thi hành ngay: Nguyễn Thị Lộ bị bỏ vào cũi sắt dìm xuống sông cho chết.
Bị kết tội đồng chủ mưu giết vua, Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc. Ông và cả ba họ ông bị xử chém vào ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (19 tháng 9 năm 1442).
Vua Lê Thái Tông lúc mất mới 20 tuổi nhưng trước khi mất vua đã có bốn con trai. Con lớn nhất là Lê Nghi Dân, con thứ hai là Khắc Xương, con thứ ba là Bang Cơ (Lê Nhân Tông sau này), con thứ tư là Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này).
Nghi Dân là con lớn nhất vốn đã được lập làm thái tử dù còn rất nhỏ. Nhưng sau đó Nguyễn Thị Anh được vua sủng ái nên năm 1441 vua truất ngôi của Nghi Dân, biếm xuống làm Lạng Sơn vương, mà lập Bang Cơ làm thái tử. Bà mẹ của Khắc Xương vốn không được vua sủng ái nên không thể tranh chấp ngôi thái tử. Tuy nhiên, nhiều người trong triều dị nghị rằng, Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông. Cùng lúc đó, một bà phi khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại có mang sắp sinh. Nguyễn Thị Anh sợ chuyện bại lộ thì ngôi lớn sẽ thuộc về con bà Ngọc Dao nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Bà này được vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ hết sức che chở, mang đi nuôi giấu và sinh được hoàng tử Lê Tư Thành năm 1442.
Biết bà Ngọc Dao đã sinh con trai mà ngày càng nhiều người đồn đại về dòng máu của Bang Cơ, nhân lúc con mình còn đang ở ngôi đương kim thái tử, có lẽ đây là động cơ khiến bà Nguyễn Thị Anh chủ động ra tay trước.
Nhân dịp vua Thái Tông về thăm Nguyễn Trãi, sợ rằng Nguyễn Trãi tiết lộ bí mật, nên nhân lúc vua bị bệnh sốt rét, đã chủ động ra tay. Thường thì khi vua ngự giá tuần du, thì luôn luôn có thái y đi theo bên cạnh. Nhưng thuốc thang mang theo thì chỉ có vài loại thông dụng. Khi vua bị bệnh sốt rét ở Lệ Chi Viên, ở Bắc Ninh, thái y có thể cho người phi ngựa về triều để lấy thuốc, vì từ Bắc Ninh về Thăng Long chỉ độ 30 cây số. Có lẽ hoàng hậu Nguyễn Thị Anh đã hạ độc trong thuốc khiến Thị Lộ bị hàm oan.
Sau khi vua mất, Bang Cơ lên ngôi, Nguyễn Thị Anh được làm thái hậu, nắm quyền trị nước. Nguyễn Trãi không thể biện bạch cho sự oan uổng của mình và phải chịu án tru di tam tộc.
Theo sử sách, ngày 9 tháng 9 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), chỉ vài ngày sau khi hành hình gia đình Nguyễn Trãi, triều đình (thực ra chính là thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính thay con), ra lệnh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng vì trước khi chết Nguyễn Trãi có nói là “hối không nghe lời của Thắng và Phúc.” Các nhà nghiên cứu nói trên cho rằng chính Đinh Phúc, Đinh Thắng là những người khuyên Nguyễn Trãi sớm tố cáo Nguyễn Thị Anh với vua Thái Tông. Do đó để diệt khẩu, bà sai giết hai người này.
Chính bởi thân thế của Lê Nhân Tông có phần “không chính” nên sau này, năm Kỷ Mão (1459), con trưởng của vua Thái Tông là Lê Nghi Dân lấy lý do để làm binh biến giết hai mẹ con Nguyễn Thị Anh. Trong bài chiếu lên ngôi, Nghi Dân nói rõ: “… Diên Ninh [Nhân Tông] tự biết mình không phải là con của tiên đế [Thái Tông]…”
Về các bài thơ của Đinh Liệt
Trong cuốn “Ngọc phả họ Đinh” do công bộ thượng thư Đinh Công Nhiếp, con trai đầu của thái sư Đinh Liệt, có một số bài thơ do Đinh Liệt viết có liên quan đến vụ án Lệ Chi Viên.
Bài thơ Nôm nhận xét về Lê Thái Tông:
Tống Thai dáng dấp một anh quân
Đắc sắc say chơi biếng kiệm cần
Hoạ tự trong nhà nhô đầu mọc
Di căn bệnh hoạn hại cho thân
Trong bài này Đinh Liệt buộc phải dùng phép nói lái: Tống Thai tức là Thái Tông Lê Nguyên Long. Vua là một “anh quân” khi vì ông biết ngăn ngừa cường thần, dẹp phiên trấn, sùng nho, mở thi cử, song lại quá ham tửu sắc. Về “hoạ tự trong nhà,” Đinh Liệt có bài thơ:
Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa
Bất thức hà nhân chủng bảo đa
Chủ kháo Tống khai vi linh dược
Cựu binh tân tửu thạnh y khoa
“Nhông tân” đọc lái là Nhân Tông, tức là Bang Cơ, con Nguyễn Thị Anh, “thạnh i” là “thị Anh”. Bài này có thể tạm dịch:
Nhân Tông sáu tháng đã ra hoa
Dòng máu ai đây quý báu à?
Núp bóng Thái Tông làm linh dược
Thị Anh dùng ngón đổi dòng cha
Trước khi vào cung, Thị Anh đã gian díu với Lê Nguyên Sơn, một người thuộc họ xa của dòng dõi Lê Khoáng (cha Lê Lợi). Một bài thơ khác, Đinh Liệt viết:
Tống Thai mạc kiến nguy ký hiện
Nịch ái Thịnh y nhật nhật tăng
Mỹ sắc điềm ngôn gia phỉ báng
Cơ đồ sự nghiệp hải hà băng
Dịch là:
Thái Tông chẳng thấy nguy đã hiện
Say đắm Thị Anh cứ mãi tăng
Sắc đẹp lời ngon kèm phỉ báng
Cơ đồ sự nghiệp có ngày băng
Việc Thị Anh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng được Đinh Liệt viết trong bài thơ mà nhiều người cho rằng vì chính hai người này đã mật báo cho ông và Nguyễn Trãi biết:
Nhung Tân hà hữu Tống thai tinh
Lục nguyệt khai hoa quái dị hình
Niên nguyệt nhật thời Thăng Đính ký
Hoàng bào ô nhiễm vạn niên thanh
chữ Thăng Đính đọc ngược là Đinh Thắng.
Dịch là:
Nhân Tông không phải máu Nguyên Long
Sáu tháng hoài thai cảnh lạ lùng
Năm, tháng, ngày, giờ Đinh Thắng chép
Hoàng bào dơ bẩn tiếng ngàn năm
Với cách gọi các vua bằng miếu hiệu như Thái Tông, Nhân Tông, chắc chắn các bài thơ này Đinh Liệt viết vào thời Lê Thánh Tông. Dù Nhân Tông và thái hậu Nguyễn thị đã chết nhưng việc này vẫn không thể nói công khai, vì trên danh nghĩa, ngôi vua của Nhân Tông vẫn là hợp pháp. Có như vậy, việc cướp ngôi của Lê Nghi Dân mới là “phản nghịch” và việc lên ngôi của Thánh Tông mới là hợp lẽ. Đây chính là nguyên nhân khiến Đinh Liệt phải dùng phép nói ẩn ý để truyền lại cho đời sau. Sau này tới đời vua Lê Thánh Tông, vua Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, những bài thơ trên được tìm thấy trong gia phả họ Đinh thất lạc tại Trung Quốc nên tính chính xác của nó không được kiểm chứng, chỉ mang tính tham khảo giả thuyết.
Lý Thành Phương
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/i-to-p/ly-thanh-phuong/
_____________
Tình yêu tuổi muộn
Tôi gặp ông ở lớp dưỡng sinh công viên. Ông tập chậm, nhưng cười nhanh. Mỗi sáng, ông hay đứng gần tôi, không nói gì, chỉ chìa chai nước, hỏi nhỏ: “Uống chút cho khỏe, mai còn gặp nữa.” Tình cảm tuổi này không ồn ào, chỉ tồn tại nếu hai người còn đủ sức… đi bộ đến cùng một nơi.
Ông thích kể về vợ cũ như kể chuyện thời tiết: “Bả mưa nhiều, giờ trời tạnh.” Tôi nghe, không ghen, chỉ thấy nhẹ như gió sớm. Ở tuổi này, ai cũng mang quá khứ như chiếc khăn choàng cũ: không bỏ được, nhưng đã bớt vướng.
Một hôm, tôi đau chân, nghỉ tập. Ông mang bịch cháo đặt trước cửa, không bấm chuông, chỉ để tờ giấy: “Đừng bệnh lâu, tôi quen có bạn tập bên cạnh.” Cả ngày, tôi thấy lòng ấm hơn thuốc.
Khỏe lại, tôi đến công viên. Ông giả vờ không thấy, rồi lén đẩy chai nước về phía tôi. Tôi nói: “Tôi chưa chắc tập lâu được.” Ông đáp: “Thì cứ tập hôm nay. Ngày mai tính sau. Người già… trả góp niềm vui.”Chúng tôi không hứa hẹn, không nắm tay, không gọi tên mối quan hệ. Chỉ đứng cạnh nhau, hít thở, để tim đập chậm nhưng không quên đập.
Ở tuổi muộn, yêu đâu phải để thay đổi đời nhau, chỉ để mỗi người có thêm lý do thức dậy sớm.

