LÝ THÀNH PHƯƠNG
Trần Dụ Tông
Trần Dụ Tông tuy được đánh giá thông minh, hiểu rộng, sách vở đều thông nhưng đến khi Thượng hoàng Minh Tông băng hà, ông trở nên bỏ bê chính sự. Ông ham mê tửu sắc, ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ta thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng.
Chu Văn An, một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng Thất trảm sớ đề nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ quan về nhà dạy học.
Dụ Tông ham chơi bời, mê đàn hát, thường sai các vương hầu và công chúa bày tiệc đóng trò hát tuồng cho vui, ai diễn hay thì được thưởng. Mặc dù phép tắc nhà Trần rất nghiêm khắc với tội đánh bạc nhưng Trần Dụ Tông lại thích trò này, chiêu tập các nhà giàu vào cung đánh bạc cùng vua.
Ông sai phu xây cất nhiều cung điện, đào hồ ở vườn trong hậu cung, trong hồ xây đá làm núi, trồng nhiều cây cỏ lạ và nuôi chim thú quý; sau đó ông lại sai làm hồ con, lệnh cho dân ra biển chở nước mặn đổ vào hồ và thả cá biển, đồi mồi vào nuôi.
Vua thích chơi bời, các quý tộc cũng hưởng ứng theo vua khiến triều đình rối nát. Bên ngoài xảy ra mất mùa trong nhiều năm. Trần Dụ Tông chỉ có các biện pháp khắc phục tạm thời như sai các nhà hào phú bỏ thóc lúa chu cấp cho người nghèo để chống đói và thưởng chức tước cho họ để trả công; ông không chú trọng việc đắp đê và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp lâu dài.
Năm 1369, Trần Dụ Tông băng hà, hưởng dương 34 tuổi, cai trị được 28 năm.
Loạn Dương Nhật Lễ
Trần Nhật Lễ, con của Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Dục được chọn làm người kế thừa đại thống. Nhật Lễ không phải là con của Nguyên Dục mà mẹ Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương. Bà múa vở Vương mẫu hiến bàn đào, thân người rất đẹp nên Nguyên Dục si mê, buộc bà phải bỏ Dương Khương mà về làm vợ mình, nhưng lúc đó bà đã mang thai Lễ. Sau khi Nhật Lễ sinh ra, Nguyên Dục tự nhận làm con mình. Đến khi Dụ Tông bệnh nặng, truyền ngôi cho Nhật Lễ để kế thừa. Thật ra, lúc đó triều thần không muốn thế mà muốn lập Cung Định vương Trần Phủ lên thay, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu lại nghĩ đó là cháu mình, khăng khăng lập Nhật Lễ nên quần thần đều nghe theo. Nhật Lễ lên ngôi, tôn Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, Trần Nguyên Trác làm Thượng tướng quốc thái tể. Sau này, Thái hoàng thái hậu biết chuyện của Nhật Lễ, hết sức thất vọng mà muốn phế truất Lễ nên Lễ ra tay trước, cho người ngầm bỏ độc giết chết Thái hậu.

Nhật Lễ ở ngôi bỏ bê chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương, việc này làm bất bình trong giới hoàng tộc nhà Trần trong đó có Thái tể Trần Nguyên Trác. Ông ngầm lập mưu bắt Lễ trong cung, cùng con trai là Trần Nguyên Tiết với 2 cháu trai là con của Thiên Ninh công chúa xâm nhập và cung nhưng kế hoạch thất bại, Nguyên Trác cùng đồng đảng đều bị Nhật Lễ giết hết.
Mùa đông, tháng 10, năm 1370, Cung Định vương Trần Phủ vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình, tránh ra trấn Đà Giang (Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên Vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán cùng với Thiên Ninh công chúa hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Lật đổ được Nhật Lễ, giáng xuống làm Hôn Đức công.
Cùng năm ấy, Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.
Hồ Quý Ly chiếm ngôi
Nghệ Tông Hoàng giữ ngôi vị được 2 năm, lên làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Trần Kính lên thay, tức là Trần Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Nghệ Hoàng lập con Duệ Tông là Trần Hiện lên thay, sử gọi là Trần Phế Đế. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Hồ Quý Ly, là cháu của Minh Từ thái phi, mẹ của Nghệ Hoàng.
Hồ Quý Ly muốn nắm đại quyền, nên xúi giục Nghệ Hoàng giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con út của Nghệ Hoàng là Trần Ngung, tức Trần Thuận Tông được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền. Con gái lớn của Quý Ly là Khâm Thánh hoàng hậu của Thuận Tông, nên mọi việc của Thuận Tông càng bị Quý Ly siết chặt hơn bởi lẽ Hồ Quý Ly rất gian xảo.
Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vị mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì.
Năm 1394, Nghệ Hoàng băng hà, hưởng thọ 74 tuổi. Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần An, khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi, tức Trần Thiếu Đế. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông, tự xưng làm Quốc Tổ Chương Hoàng.
Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Đại tướng quân Trần Khát Chân cùng các tông thất lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ, lập ra triều đại nhà Hồ.
Nhà Trần chấm dứt, kéo dài 175 năm với 12 đời hoàng đế.
Nguồn gốc tên con em nhà Trần
Tổ tiên nhà Trần vốn là người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc). Có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua (Thái Tông Trần Cảnh) là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý.
Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên của nhà Trần thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ. Tổ họ Trần (Trần Lý), trong tiếng Hán “Lý,” nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (Trần Liễu cha của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn), người con thứ hai, Trần Cảnh, có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh. Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là “Bà chúa Ngừ”.
Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.
Lãnh thổ Việt Nam dưới thời nhà Trần
Địa giới phía bắc nước Đại Việt thời Trần kế thừa nhà Lý bao gồm một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), vùng bắc Bộ Việt Nam hiện nay và vùng Thanh-Nghệ-Tỉnh.
Năm 1069, dưới thời vua Lý Thánh Tông biên giới đã mở rộng về phía nam đến tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị (khoảng phân nửa tỉnh , Quảng Trị hiện nay).
Năm 1306, dưới thời vua Trần Anh Tông lãnh thổ được mở rộng thêm phần còn lại của Quảng Trị đến đèo Hải Vân và Thừa Thiên – Huế ngày nay.
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/i-to-p/ly-thanh-phuong/
