Những mảnh đời sau ba bức hình nổi tiếng

by Tim Bui
Những mảnh đời sau ba bức hình nổi tiếng

TRÙNG DƯƠNG

Vào mùa Đông năm 1984, nhiếp ảnh gia Steve McCurry tháp tùng phóng viên Debra Denker của tạp chí National Geographic thăm một trại tị nạn Nasir Bagh ở Pakistan gần biên giới với Afghanistan, nơi chứa hàng ngàn dân tản cư từ Afghanistan chạy tránh chiến tranh giữa các lực lượng kháng chiến Afghan chống lại quân Nga Xô xâm lăng thời bấy giờ.

Tại đây ông McCurry đến thăm một lớp học và bị lôi cuốn bởi một cô bé khoảng 12 tuổi có đôi mắt màu xanh lục rất lạ. Cô giáo của cô, một phụ nữ bị mất một chân vì đạp phải mìn, cho biết cô bé tới trại sau hai tuần cùng bà ngoại (hay nội) và mấy nguời anh em vượt núi phủ đầy tuyết tại biên giới tới Pakistan sau khi cha mẹ bị máy bay Nga Sô dội bom chết. McCurry xin phép chụp hình cô bé và hoàn tất trong vòng vài phút. 

Một trong những tấm hình chụp cận ảnh cô bé, trong tấm khăn màu đỏ cũ kỹ quấn hững hờ trên đầu viền quanh khuôn mặt nhếch nhác với đôi mắt màu lục như trong suốt nhìn thẳng vào ống kính, đã được National Geographic chọn dùng làm bìa cho số báo ra tháng Sáu năm 1985 để nói lên thảm cảnh dân tị nạn ở biên giới Afghanistan và Pakistan.

Bức chân dung của Cô bé A Phú Hãn không tên với cái nhìn như xoáy vào lòng người đã trở thành biểu tượng của vấn nạn dân tị nạn khắp thế giới, kể cả vấn nạn thuyền nhân Việt vào cuối thập niên 1970 tới giữa thập niên 1990 bấy giờ. Cái nhìn khiến có người ví với cái nhìn bí ẩn mê hoặc, ai-muốn-giải-thích-sao-cũng-được, của Mona Lisa trong bức tranh nổi tiếng La Joconde của danh họa Leonardo da Vinci. 

Nhiều độc giả đã gọi điện thoại hay viết thư tới National Geographic hỏi thăm về cô bé. Có người muốn biết cái gì đã xảy ra cho cô bé; có người muốn biết làm thế nào để gửi tiền giúp cô bé; có người muốn nhận cô bé làm con nuôi; lại có vài thanh niên muốn tìm ra tông tích của cô bé và nói sẵn sàng kết hôn với cô nữa. Những câu hỏi, cũng như ánh mắt nhìn như xoáy vào lòng người của Cô bé Aghan khiến McCurry cảm thấy một thôi thúc phải đi tìm cho ra tông tích của cô bé mà khi chụp, McCurry không ngờ là bức hình có một sức mạnh khiến ai nhìn cũng cảm thấy như bị thu hút vào chiều sâu trong suốt vô đáy ấy.

Suốt thập niên 1990 Afghanistan, sau khi thoát khỏi cuộc chiến với quân đội Nga Sô, lại rơi vào sự cai trị hà khắc của chính phủ Hồi giáo cực đoan Taliban. McCurry đã có những nỗ lực tìm kiếm tông tích của Cô bé Afghan song không thành công vì Afghanistan đóng cửa biên giới không cho báo chí Tây phương lai vãng.

McCurry cho biết tuy thế, “không một tuần nào qua đi mà chúng tôi lại không nhận được nhiều câu hỏi về Cô bé Afghan đã ra sao, còn sống hay đã chết, và nếu còn sống thì giờ ra sao.”

Cuộc truy tìm ‘Cô Bé Afghan’

Vào năm 2002, chính quyền Taliban bị quân Hoa Kỳ và đồng minh đánh đổ sau vụ khủng bố 9/11 của quân al-Qaeda của trùm khủng bố Osama bin Laden mà Taliban dung dưỡng tại Afghanistan. Khi nghe tin Pakistan sắp sửa đóng cửa trại tị nạn Nasir Bagh nơi McCurry đã chụp hình Cô bé Afghan gần hai chục năm về trước, McCurry hướng dẫn nhóm làm phim truyền hình Explorer thuộc National Geographic lên đường đến Pakistan đi tìm cô bé. 

Qua nhiều ngày thăm dò với một số người còn trong trại, trong đó có cả cô giáo cụt chân đã dậy cô bé dạo nào, cuối cùng McCurry được một người nhận ra cô bé trong hình và giúp phái đoàn tới gặp người anh của cô bé. Người anh, với cặp mắt giống như màu mắt của cô bé trong hình, cho biết cô em gái đã cùng với chồng con hồi hương từ năm 1992 sau khi quân Nga Sô rút lui. Anh ta tình nguyện về nước kiếm cô em và đưa cô tới gặp McCurry và phái đoàn National Geographic.

Cuối cùng, McCurry được tái ngộ với Cô bé Afghan. Cô bé đã là một phụ nữ có chồng và ba con, tên thật là Sharbat Gula, lúc ấy vào khoảng 30 tuổi (bởi chính chị cũng không biết tuổi thực của mình). Mặc dù khi thấy Gula, McCurry nhận ra ngay nhờ cặp mắt không thay đổi bao nhiêu, dù vậy National Geographic cũng nhờ chuyên viên nhận diện con ngươi phân tích và so sánh cặp mắt trong tấm hình chụp năm 1984 với bức hình Gula chụp năm 2002, cũng như nhờ FBI làm một cuộc nhận diện khuôn mặt bằng máy vi tính. Cả hai thử nghiệm cùng xác quyết Gula và cô bé trong bức hình 1984 là một.

Chị Sharbat Gula chụp với cuốn tạp chí National Geographic số ra tháng Sáu năm 1985 có in hình của chị khi mới 12 tuổi. Suốt 17 năm bức hình đã trở thành nổi tiếng khắp nơi, và là biểu tượng của những người tị nạn trên thế giới; song chính chị không hề hay biết gì đến sự hiện diện của nó, cũng như không biết rằng Steve McCurry, tác giả của bức hình, đã cất công truy tìm tung tích chị trong suốt thời gian đó. (Ảnh Steve McCurry) Phải, hình bìa của số National Geographic tháng Tư năm 2002 trong có đăng bài về hành trình đi tìm Cô bé Afghan. (Ảnh National Geographic)

Cuộc tìm kiếm Cô bé A Phú Hãn đã được nhóm thực hiện phim Explorer thuộc National Geographic  Society làm thành phim tài liệu phát hành năm 2003, với tựa đề “The Search for the ‘Afghan Girl’,” (Cuộc truy tìm Cô bé Afghan) dài 53 phút, hiện có thể xem trên YouTube. Sau khi phim phổ biến, gia đình Gula đã phải thay đổi chỗ ở. Theo yêu cầu của gia đình Gula, nơi ở của họ được dấu kín vì họ muốn sống một cuộc sống bình thường.

‘Cô bé Sudan’

Nhiếp ảnh gia gốc Nam Phi Kevin Carter là người được giải Pulitzer cho bức hình đã gây chấn động về thảm cảnh chiến tranh đói khổ của dân Sudan vào đầu thập niên 1990, tựa là ‘Cô bé Sudan.’ Anh ta không có được cái may mắn như nhiếp ảnh gia McCurry đi tìm và gặp lại chủ đề của mình.

Bức hình được giải danh giá Pulitzer mô tả một bé gái gục xuống vì đói, với một con diều hâu đứng trực sẵn ở hậu cảnh. Bức ảnh Carter tình cờ chụp được khi anh và một bạn đồng nghiệp chờ đi nhờ chuyến bay chở thực phẩm cứu trợ của Liên Hiệp Quốc để đi săn hình về nhóm phiến loạn đàng sau cuộc nội chiến, bên cạnh tình trạng hạn hán đã đưa tới nạn đói khủng khiếp ở Sudan—nạn đói đã giết hại hàng trăm ngàn người. 

Bức ảnh đã được tờ The New York Times mua và in nơi trang ba số ra ngày 26 tháng Ba, 1993; sau đó được các báo khắp nơi trên thế giới tường thuật lại. Bức ảnh đoạt giải phóng sự nhiếp ảnh sáng giá Pulitzer năm 1994, trở thành biểu tượng của nạn đói kinh hoàng ở Sudan dạo đó (và hiện lại đang tái diễn khi người viết soạn bài này). 

Ảnh documentingreality.com

Đồng thời, bức hình cũng trở thành một trong những hình phóng sự đã gây nhiều tranh biện nhất.

Cũng như trường hợp của McCurry với bức hình Cô bé Afghan, liền sau khi hình được phổ biến, độc giả đã tới tấp gọi tới tòa báo hỏi thăm điều gì đã xảy ra cho cô bé đáng thương đó. Nhiều người chỉ trích Carter là đã không làm gì giúp cô bé mặc dù đã trải qua khoảng 20 phút tại hiện trường, hình như có vẻ còn hy vọng con kên kên xoè cánh để có một cái hình hay hơn. Bị vặn hỏi, Carter giải thích là anh ta đã được dặn dò là không nên đụng vào các nạn nhân bị đói để tránh bệnh tật, nên đã chỉ xua đuổi con kên kên đi sau khi chụp hình, và cô bé cũng đã bò tới được trạm cứu đói cách đó vài thước. 

Greg Marinovich, một đồng nghiệp của Carter, người đoạt giải phóng sự nhiếp ảnh Pulitzer năm 1991 về một tấm ảnh một người da đen bị tình nghi là gián điệp đã bị đánh đập và đốt sống trong một trong những đụng độ đầy bạo lực tại Nam Phi khi còn dưới chế độ kỳ thị chủng tộc da đen (apaheid) của tập thể lãnh đạo da trắng, đã lên tiếng bênh vực Carter. Ông nói: “Phần vụ của [Carter] với tư cách một nhà báo, là trình bày thảm cảnh của dân Sudan, đã hoàn tất, đúng ra là vượt quá cả hoàn tất. Chuyến bay [Operation] Lifeline Sudan [của Liên Hiệp Quốc] không chở Kevin và João [Silva, người đi cùng với Carter] đến Sudan để nhặt nhạnh và cho trẻ em đang chết đói ăn — họ được đưa vào Sudan để tường trình về những gì khủng khiếp nhất của nạn đói và quảng bá đến mọi người.”

Dù vậy, Carter không thể không bị ảnh hưởng bởi những chỉ trích. Nếu McCurry của ‘Cô bé Afghan’ có khả năng và hỗ trợ của cả một tổ chức tên tuổi và nhiều nguồn năng lực như National Geographic Society để đi tìm cô bé đằng sau tấm ảnh nổi tiếng đó, thì Carter, ngược lại, không có những điều kiện may mắn đó. 

Carter sinh ra trong một gia đình người da trắng, lớn lên ở khu toàn da trắng thuộc thành phố Johannesburg, Nam Phi. Theo dõi những tin tức về cuộc tranh đấu của người da đen mà người lãnh đạo là Nelson Mandela, Carter đã cảm thấy có gì không ổn. Khi Carter bỏ ngang việc học dược, anh ta bị động viên. Trong khi ở trong quân ngũ, một lần Carter thấy một người hầu bàn da đen bị một số quân nhân đối xử tàn tệ ở trong phòng ăn của trại, anh ta nhảy vào can thiệp liền bị đánh đập. Bất bình, Carter bèn đào ngũ, nhưng sau vài thất bại ngoài đời vì tình trạng bất hợp pháp của mình, anh đành phải trở lại hoàn tất nghĩa vụ quân dịch. Sau khi chứng kiến vụ đánh bom của người da đen trong tổ chức African National Congress chống lại chế độ kỳ thị của tập đoàn lãnh đạo da trắng vào năm 1983 ở Pretoria, Carter quyết định trở thành phóng viên nhiếp ảnh. 

Cùng với các đồng nghiệp phóng viên nhiếp ảnh Greg Marinovich, Ken Oosterbroek và João Siva, bộ bốn thanh niên da trắng này họp lại thành một nhóm được mệnh danh là the Bang Bang Club, là những người không quản hiểm nguy chạy tới những nơi có súng nổ (trong khi thiên hạ chạy đi) để thu hình, cung cấp cho các báo Tây phương để có dịp trình bày với thế giới sự tàn bạo của cuộc nội chiến ở Nam Phi giữa một đa số da đen đòi quyền sống và một thiểu số da trắng thống trị và kỳ thị. Dù muốn dù không, loạt hình của nhóm Bang Bang Club đã đánh động lương tâm thế giới về chế độ kỳ thị chủng tộc phi nhân và phi lý của Nam Phi, và đã góp phần vào cuộc tranh đấu nhằm thay đổi chế độ này của người Nam Phi, với phần lớn là gốc da đen, do Nelson Mandela lãnh đạo.

Thường xuyên chứng kiến và thu vào ống hình những cảnh con người đối xử tàn bạo với con người đã ảnh hưởng tới tâm lý của người phóng viên nhiếp ảnh. Thêm vào đó là áp lực của những bình phẩm về thái độ gọi là tắc trách đối với cô bé trong bức hình đã đoạt giải Pulitzer. Tờ St. Petersburg Times ở Florida, trong một bài bình luận, đã thống trách Carter, rằng: “Người đàn ông này đã điều chỉnh ống kính để thu vào gọn trong khung hình nỗi khổ đau của cô bé, có khác nào một tên săn mồi, một thứ kên kên khác trong cảnh trên.”

Nghèo đói, nợ nần, lại bị ảnh hưởng bởi thuốc, Kevin rơi vào tình trạng trầm cảm trầm trọng. Vào ngày 27/7/1994, vài tháng sau khi lãnh giải Pulitzer, ở tuổi 33, Carter lái chiếc pickup của mình tới một nơi anh hay tới chơi hồi còn nhỏ, tự vẫn chết bằng hơi độc mà anh ta dẫn bằng một cái ống từ ống khói của xe qua cửa sổ vào chỗ tài xế ngồi. 

Carter để lại một lá thư tuyệt mệnh, có đoạn như sau: “Tôi vô cùng xin lỗi. Sự đau đớn của đời sống đã lấn lướt niềm vui đến đỗi niềm vui không còn hiện hữu nữa… tuyệt vọng… không điện thoại… tiền trả tiền thuê nhà… tiền trả cho con… tiền trả nợ… tiền!!!… Tôi bị ám ảnh bởi những ký ức sống động về các vụ giết người và tức giận và đau đớn… của trẻ em chết đói hay bị thương tích, về những người điên nổ súng và hể hả trong việc bắn giết, thường là cảnh sát, của những tên hành quyết khát máu… Tôi đi để đoàn tụ với Ken [Oosterbroek, một đồng nghiệp trong nhóm Bang Bang Club bị tử thương trước đó một thời gian ngắn khi cùng với Carter đến thu  hình một vụ xung đột], nếu tôi được may mắn như anh ấy.” Và Carter đã toại nguyện.

Bi kịch Kevin Carter trong bối cảnh Nam Phi trong thời kỳ còn chế độ “apartheid” (chế độ này chỉ chính thức kết thúc bằng cuộc bầu cử lịch sử vào năm 1994 với việc thắng cử của cố Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi, Nelson Mandela), cũng như đời sống đầy hiểm nguy của các phóng viên nhiếp ảnh đã được Greg Marinovich và João Silva ghi lại trong cuốn hồi ký “The Bang-Bang Club – Snapshots from a Hidden War,” xuất bản năm 2001, khá lôi cuốn, với nhiều cảnh bạo lực khiến một người nhạy cảm có thể không chịu được. Năm 2010, đạo diễn Steven Silver thực hiện thành phim cùng tên, nhưng không thành công lắm. Cái chết của Carter cũng đã là chủ đề của một cuốn phim tài liệu ngắn khoảng nửa tiếng, tựa là “The Death of Kevin Carter: Casualty of the Bang Bang Club” (2006), do Dan Krauss thực hiện. Phim đã được đề cử vào tranh giải Oscar dành cho phim tài liệu ngắn cùng năm.

Trái, bìa cuốn hồi ký “The Bang Bang Club – Snapshots from a Hidden War”, xuất bản lần đầu năm 2001, của phóng viên nhiếp ảnh Greg Marinovich và João Silva, hai trong bốn người sống sót của nhóm The Bang Bang Club. Giữa, bích chương của phim “The Bang Bang Club” (2011) do Steven Silver đạo diễn, dựa trên cuốn hồi ký cùng tên. Trong bích chương, người đứng giữa là tài tứ Taylor Kitsch, gốc Canada, thủ vai Kevin Carter. Và phải, bích chương phim tài liệu “The Death of Kevin Carter – Casualty of the Bang-Bang Club” do Dan Krauss thực thiện vào năm 2006.

‘Cô bé Napalm’

Trong ba bức hình nổi tiếng chọn cho bài viết này, bức ‘Cô bé Napalm,’ do phóng viên nhiếp ảnh Nick Út chụp và đã đoạt giải ảnh phóng sự Pulitzer năm 1972, đã mang lại cho người chụp cũng như chủ đề của hình những kết quả tích cực và cảm động hơn cả.

Vào một ngày tháng Sáu năm 1972, trong một trận dội bom xuống một làng ở Trảng Bàng, Nam Việt Nam, nơi đã bị Cộng quân tấn công và chiếm đóng, phi cơ của bên Việt Nam Cộng Hoà đã lầm tưởng một nhóm cư dân chạy tránh bom đạn và đã thả bom lửa lầm xuống họ, giết chết một số người và làm bị thương một số người khác. Phan thị Kim Phúc, lúc ấy mới chín tuổi, bị phỏng nặng quần áo bị cháy nên đã bị cô trút bỏ. Phóng viên nhiếp ảnh Nick Út của Associated Press đã chụp được bức hình đã trở thành biểu tượng của cuộc chiến tại Việt Nam. Bức hình đã được trao giải Pulitzer cùng năm.

Khác với McCurry, tác giả ‘Cô bé Afghan,’ và Carter, tác giả ‘Cô bé Sudan,’ Nick Út có dịp giúp đỡ cô bé Phúc và các nạn nhân khác bằng việc tìm phương tiện đưa họ tới nhà thương, và sau đó theo dõi cuộc điều trị của họ, đặc biệt của Phúc, người bị phỏng nặng hơn cả. Sau 14 tháng điều trị với 17 lần mổ, Kim Phúc bình phục và trở về làng, nơi khi nào có dịp Nick Út đã ghé thăm. Rồi họ mất liên lạc khi Nick Út di tản ra khỏi Việt Nam khi biến cố 30/4/1975 xảy ra. 

Kim Phúc ở lại, trở thành một công cụ của chính quyền cộng sản nhằm tuyên truyền về “tội ác của Mỹ Ngụy.” Song cũng nhờ vậy mà Kim Phúc có dịp được phép của nhà nước cho đi học ở Cuba vào năm 1986. Tại đây, cô quen biết với Bùi Huy Toàn, người sau này trở thành hôn phu của cô. Năm 1992, hai người thành hôn và lên đường đi Moscow hưởng tuần trăng mật. Khi chuyến bay của họ phải dừng lại ở Gander, Newfoundland, Canada để đổ xăng, hai vợ chồng tìm cách trốn khỏi máy bay và xin tị nạn chính trị ở Canada. Hiện hai vợ chồng sống tại Ajax, Ontario gần Toronto và có hai con. Năm 1996 họ trở thành công dân Canada. Năm sau, 1997, Kim Phúc thành lập Kim Phuc International Foundation (www.kimfoundation.com/‎) nhằm giúp các trẻ em nạn nhân chiến tranh bị thương tích cần chữa trị ở ngoại quốc. Kim Phúc đã đi nói chuyện ở nhiều nơi, đã là đề tài của nhiều bài báo, sách, phim, bài hát, trong đó có cuốn “The Girl in the Picture: The Kim Phuc Story, the Photograph and the Vietnam War” của Denise Chong, xuất bản năm 1999, và bài hát “The Girl in the Picture” do nhà soạn nhạc người Belgium Eric Geurts viết tặng Kim Phúc vào năm 2003. 

Vào ngày 28/12/2009, đài phát thanh National Public Radio phát thanh khắp nước Mỹ bài nói chuyện đơn sơ song cảm động của Kim Phúc, “The Long Road to Forgiveness / Hành trình dài dẫn tới sự tha thứ” trong loạt chương trình “This I Believe.”

Trái, bích chương của một chương trình nói chuyện của Kim Phúc. Phải, tại buổi tưởng niệm 50 năm bức hình lịch sử “Cô bé Napalm” tại Trung tâm Văn hóa Trung Hoa tại Toronto ngày 3/12/2022. (Ảnh Kim Phuc International Foundation)

Kim Phúc cũng đã gặp lại những người đã giúp đỡ cô khi bị nạn, như các bác sĩ đã chữa trị cô ở Việt Nam, các phóng viên quốc tế đã giúp cô lúc bị nạn và phổ biến trường hợp của cô như một trong những nạn nhân tí hon của chiến tranh. 

Và đã hẳn là cô cũng gặp lại người phóng viên nhiếp ảnh Nick Út. Cả Nick Út lẫn Kim Phúc là những người may mắn đằng sau bức hình ‘Cô bé Napalm’ nhờ còn duy trì được một liên hệ bằng hữu cho tới nay. 

Tuy vậy, gần đây có người đã công khai đặt nghi vấn về việc Nick Út có thực sự là người đã chụp bức hình “Cô bé Napalm” đó. Song, đấy lại là chuyện khác, không thuộc phạm vi của bài này.

[td2025-05]

Chú thích:
“The Search for the ‘Afghan Girl’” http://www.youtube.com/watch?v=kQyTgIWQbiU&list=PL6839B65DB79FF302&index=1
“The Death of Kevin Carter: Casualty of the Bang Bang Club”
https://archive.cincyworldcinema.org/kevincarter.php “The Long Road to Forgiveness”, http://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=91964687

You may also like

Verified by MonsterInsights