QUỐC ĐỊNH
Kinh Đôi là con kinh lớn nối sông Sài Gòn với rạch Chợ Đệm, một thủy lộ mới nhắm giải tỏa áp lực cho rạch Bến Nghé, do nhà cầm quyền Pháp thực hiện năm 1905. Trong thời chiến tranh, dân chúng từ các vùng chiến sự đã lấn bờ kinh để cư ngụ khi tản cư về Sài Gòn. Từ sau năm 1975, việc lấn bờ kinh càng nhiều hơn do rất nhiều nguyên nhân. Để “làm đẹp thành phố, nhà cầm quyền Sài Gòn đang mở cuộc “giải tỏa” lớn ở bờ bắc Kinh Đôi khu vực thuộc quận 8 cũ. Theo nguồn tin từ các cơ quan chức năng thì phải dời 14.950 căn nhà, gồm 9.440 căn nằm hoàn toàn trên đất ven rạch, 3.473 căn một phần trên rạch, 1.589 căn nằm hoàn toàn trên rạch và 448 căn thuộc chung cư Phạm Thế Hiển với tổng kinh phí hơn 105.100 tỷ đồng. Dù được hứa sẽ có chỗ “tái định cư” nhưng dân chúng vẫn lo lắng về cuộc sống sắp tới!
Cuộc lấn kinh rạch ở Sài Gòn bắt đầu từ sau tháng Tư năm 1975. Nếu như trước năm 1975 vì lý do chạy nạn chiến sự ở các tỉnh, thành, vùng quê về Sài thành, thì lý do chính của cuộc lấn kinh rạch lần này là để tìm chỗ che nắng mưa và miếng cơm manh áo. Đây cũng là thời kỳ mà hầu như tất cả các kinh rạch lớn nhỏ ở Sài Gòn đều bị lấn để có chỗ trú ngụ, sinh nhai bằng nhiều cách.
Kể về đoạn đời này, dì Ba Lành, 74 tuổi, quê ở Mộc Hóa (Long An cũ), lấy chồng rồi về quận 8 sinh sống (ngụ tại số 311A Nguyễn Duy, phường Hưng Phú, quận 8) từ trước năm 1975, bùi ngùi: “Gia đình tui đi kinh tế mới đầu năm 76, ở được vài năm “chịu không thấu” rồi lại quay về. Tiền thì chỉ có vài đồng, gom góp vay mượn để mua cây, mua ván dựng được cái “nhà” hơn chục mét vuông ngay trên bãi bồi dòng kênh. Quanh tui, có nhà cả ba, bốn thế hệ hơn chục người phải chen chúc khổ sở trên cái sàn ván chưa đến 20m2. Mọi thứ rác rưởi sinh hoạt cứ trút hết xuống kinh, kể cả chất thải con người! Hồi đầu, tụi tui còn thấy khoảng hở giữa các nhà sàn này, sau ngày càng san sát kín mít. Thậm chí, nhiều đoạn ở khúc cầu Hiệp Ân còn có hai, ba lớp nhà lấn ra kinh. Căn bắt từ bờ ra kinh là lớp thứ nhất, rồi lớp thứ hai và sau đó là những căn nhà hoàn toàn dựng trên kinh. Đó là con cháu lập gia đình, không có điều kiện lên bờ, phải cơi nới thêm chỗ ở phía sau nhà cha mẹ, vốn cũng đã rất tạm bợ…”. Việc lấy nước kinh làm nước sinh hoạt ở một số kinh rạch coi như chấm dứt hoàn toàn và trở thành “chuyện xưa tích cũ.”
Thời kỳ đó, những căn nhà “cao cẳng” đã chen kín cả bốn trục kinh rạch tiêu thoát nước của thành phố là: Thị Nghè – Nhiêu Lộc, Tàu Hủ – Bến Nghé, Tân Hóa – Ông Buông – Lò Gốm và kinh Tẻ – kinh Đôi chảy qua cả chục quận như: quận 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, quận 11, Phú Nhuận, Tân Bình, Bình Thạnh, Bình Chánh (sau là quận Bình Tân)… Đến năm 1997, một số liệu khảo sát cho biết, có khoảng 35.000 căn nhà tạm bợ, lụp xụp, với xóm đèn dầu ven kinh, rạch. Tuy nhiên, đây là số liệu vẫn chưa đầy đủ, vì có nhiều cái chòi, túp lều “không số, không tên” chưa được hay chưa thể đưa vào thống kê.
Sống chen chúc ven kinh rạch hầu hết là người nghèo. Họ không có tiền mua đất, không có nghề nghiệp, không có bằng cấp, thậm chí một số người còn không có cả giấy tờ chứng minh nhân thân… Để có thể tồn tại trong một đô thị rực ánh đèn mỗi đêm, họ phải “cựa quậy,” làm đủ nghề để sinh sống!
Những nghề đã… tuyệt tích!
“Bây giờ thì đã tuyệt tích, nhưng “nghề giặt bao nilon,” một thời đã là cách mưu sinh của hàng trăm gia đình ở vùng này, mà tui là một trong số đó,” dì Ba Lành với tay ra sau lưng, vỗ vỗ vào cái lưng còng của mình, như để minh họa cho chúng tôi hình dung ra cái nghề… quái dị này. Thuở ấy (ở thập niên 80-90 của thế kỷ trước), thành phố có rất nhiều dân “móc bọc” [chỉ nghề đi lượm bao nilon ở các đống rách], với đủ lứa tuổi từ già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu đều có. Họ được trang bị một thanh sắt dài khoảng 60 phân, một đầu uốn cong chuốt nhọn, lưng khoác một bao tải bằng nhựa, phương tiện di chuyển là “hai cẳng” đi rảo khắp hang cùng ngõ hẻm ở Sài Gòn để lục lọi, săn tìm các loại bao ni lông đã bị vứt bỏ! Khi thấy “miếng mồi” là họ nhanh tay dùng móc nhọn của thanh sắt “móc” vào miếng ni lông rồi trút vào cái bao trên lưng. Đội quân này đông đảo vô cùng, nhất là trẻ em 10-15 tuổi. Đó là hình ảnh của đội quân “móc bọc.” Hồi đầu, đạo quân này tập trung quanh các “bô rác,” trạm trung chuyển rác, nhưng sau thì ni lông của các bô rác đã được công nhân vệ sinh, gom rác “bao thầu độc quyền” nên dân “móc bọc” hết đường kiếm sống. Bọc ni lông sau một ngày được họ mang đến các vựa ve chai cân ký, tính tiền. Ở khu xóm của dì Ba Lành, khu lò heo Chánh Hưng thời đó có cả chục vựa ve chai thu gom các loại bao nhựa, đồ nhựa.
Bao ni lông sau khi được thu gom thì các vựa thuê người mang xuống dòng kinh để “giặt” cho sạch rồi đem phơi khô, cân ký đóng bành bán cho các cơ sở tái chế đồ nhựa. Dân ở hai bờ kinh Đôi lúc ấy, cứ vào khoảng 4-5 giờ chiều là có hàng trăm người lội xuống kinh để giặt bao ni lông. Hàng ngày, dì Ba Lành cứ lom khom, hai chân “cắm” dưới dòng kênh đen, giặt hàng trăm ký bao ni lông để kiếm tiền… đong gạo. Năm tháng đã làm cái lưng của dì nay đã còng hẳn.
Bao nhiêu chất dơ, đồ thải đều được “giặt” thẳng xuống kênh rồi “bốc” lên những thứ mùi kinh dị mà người giặt lẫn cư dân đôi bờ ở lâu riết biến thành một thứ bệnh, gọi là “điếc mũi.” Ông Nguyễn Đăng Thới, 72 tuổi, sống đường Nguyễn Duy từ thuở “cha sinh mẹ đẻ,” thời ấy làm bốc vác công nhật ở một vựa ve chai gần nhà, mô tả: “Tụi tui làm nghề này nhiều năm, ai cũng bị “điếc mũi” mãn tính đến bây giờ. Ăn uống, các món chiên xào, nấu nướng chỉ là “nghe, thấy” chứ không biết là mùi gì. Ngay cả cà phê uống hàng ngày là ghiền hay theo thói quen, chứ không biết… thơm ra sao!”
Dần dà, con kinh không chỉ hôi thối vì rác, nước sinh hoạt dơ…, mà còn đến từ những cơ sở nấu tái chế nhựa cũng thải khói độc, xả thải trực tiếp xuống dòng kinh. Song các cơ sở này đã bị buộc phải dời ra ngoại thành, xa khu dân cư hoặc phải đóng cửa nên nghề móc bọc này dần dần đã biến mất với cư dân kênh Đôi. Có chăng chỉ còn trong ký ức hay đã là dấu tích bệnh… nghề nghiệp như của dì Ba Lành, ông Thới.
Bị lấn chiếm cũng như bị hàng trăm thứ rác thải thẳng xuống kinh suốt nhiều thập niên, rồi chất dơ bị bồi lắng mà không được nạo vét nên dòng nước ô nhiễm trầm trọng, lòng kinh ngày càng bị thu hẹp. Đến giữa thập niên 90, ghe, xuồng hầu như không đi lại được ở nhiều đoạn trên kinh Đôi, kéo theo việc nhiều nghề mưu sinh của cư dân ở đây đã mất hẳn. Nhưng cơm áo không đùa với… dân nghèo, nghề này mất, nghề khác cũng đến với ông Thới cùng cư dân ven kinh để có cái lấp đầy… bao tử. Nghề mới này là nghề vớt trùn.
Con kinh này quả là lạ! Đen ngòm, “thúi quắc” vì ô nhiễm nhưng lại sản sinh ra một loại trùn nước, một thời đã là “miếng cơm” cho cư dân nhiều thế hệ ở đây. Đó là trùn chỉ. Lạ là, theo kinh nghiệm của ông Thới thì, trùn chỉ thường sống tập trung ở trong bùn trầm tích tại các vùng nước chảy không quá nhanh và ô nhiễm như cống, rãnh, mương, kinh… Sở dĩ trùn chỉ thích ở những nơi “càng ô nhiễm, càng khỏe” này vì ở đây có nhiều trầm tích hữu cơ làm thức ăn cho chúng. Ở các dòng kinh ô nhiễm, trùn chỉ cũng ít gặp phải các loài cá thiên địch vì cá hầu như khó… sinh sống trong môi trường độc, bẩn này. Theo những người bắt trùn chỉ lâu năm, những nơi có nước đen đục, bùn lầy gần các khu chăn nuôi, nước thải sinh hoạt thì ở đó chắc chắn sẽ có… nhiều trùn chỉ. Gần 40 năm trước, người sống ven các con kinh, rạch ô nhiễm vớt trùn chỉ về cho vịt ăn. Rồi phong trào nuôi cá cảnh phát triển mạnh, trùn chỉ lại là món khoái khẩu cho các loại cá cảnh. Thế là nhu cầu về trùn chỉ tăng vọt. Nghề đãi trùn chỉ “sống mạnh” kể từ đó. Dụng cụ hành nghề của ông Thới chỉ có chiếc vợt bằng vải mùng cùng vài cái thau nhựa với chiếc xe máy cà tàng. Ông cùng hàng chục “bạn nghề” khác hàng ngày lượn lờ khắp đôi bờ kinh Đôi, đến chỗ nào… ô nhiễm nhất, là xuống xe để trên bờ vác cái vợt, cái thau rồi lội xuống… kiếm tiền!
Ông Thới kể, khi nước cạn, nắng gắt, có lúc mình đằm dưới nước vài ba giờ đồng hồ để vớt, đãi trùn chỉ. Trùn chỉ sinh sôi và quần tụ, quấn thành từng búi lớn, nhiều nhất ở vùng nước chảy chậm, nhiệt độ nước luôn ấm nóng, ô nhiễm, như: miệng cống, cạnh chuồng heo, chuồng bò, cống xả phân, chất thải quán ăn… Người đãi trùn chỉ phải đằm mình nhiều giờ trong dòng nước đen đặc, hôi thối độc hại, dễ mắc các bệnh ghẻ lở nên không phải ai cũng… dám làm. Nghề này sợ nhất là mưa, bởi mỗi khi mưa xuống, nước loãng, dòng chảy siết, chỉ đãi được ít trùn. Tranh thủ vớt trùn chỉ, thi thoảng ông Thới cũng “kiếm thêm” với ve chai trôi nổi theo dòng kinh. Nhưng rồi dần ve chai cũng biến mất trên kinh nên ông quanh năm, ngày ngày ngụp lặn dưới dòng kênh đen ngòm để mưu sinh. Để tìm trùn, người vớt thường dùng cây sào rà một đoạn dọc bờ kênh, thấy trùn bám nhiều vào đầu sào thì mới nhảy xuống đãi.
Nhưng nghề nào cũng có thời. Hồi trước, kinh Đôi có rất nhiều trùn, cứ xuống đãi là kiếm được cả chục ký. Nhưng rồi dòng kênh ô nhiễm nặng quá với đủ loại hóa chất được thải xuống hàng giờ, hàng ngày riết rồi con trùn rồi cũng… thoái hóa, cứ ít dần rồi biến mất khỏi dòng kinh từ nhiều năm trước. Có ngày, lặn lội, phơi nắng dưới kinh cả chục tiếng đồng hồ, ông Thới chỉ vớt, đãi được vài lon (sữa bò) trùn chỉ, bán được non trăm ngàn. Thêm nữa, tuổi ngày càng cao, sức càng yếu, ông Thới đành gác vợt, bỏ nghề.
Những ước mơ đổi đời
Tại tiệm tạp hóa kiêm quán cà phê ở số 307 Nguyễn Duy (phường Hưng Phú, quận 8 cũ), câu chuyện thời sự bên ly cà phê của bà con tại đây, quanh đi quẩn lại cũng là câu chuyện phải dời nhà của dân chúng, cùng với những viễn cảnh về cuộc sống sắp tới sau khi nhiều người “nhận tiền tỉ” bồi thường.
Anh Đặng Văn Chánh, 45 tuổi, chủ quán xởi lởi kể: “Căn nhà tôi phía sau ăn sâu ra con kênh, rộng hơn 70m2, được đền bù khoảng trên 5 tỷ cũng đang mong ngóng chờ đến ngày dọn đi. Vì dọn đúng thời hạn mà nhà nước đưa ra mình cũng sẽ được thêm 15 triệu tiền hỗ trợ.” Anh Chánh kể thêm, nhà kế bên mình, rộng chỉ hơn 30m2, cũng được trên dưới ba tỷ, đang đập dọn phần phía sau để dọn đi, vì nhà này đã mua được miếng đất ở đâu miệt Bình Chánh để định cư cho cuộc sống mới.
Tham gia vào bàn tròn cà phê, nhiều người ở đây đều mong được tái định cư tại chỗ vì dân ở kênh Đôi này, đều là người “cựu trào,” sinh ra và lớn lên ở đây đã nhiều thập niên. Sống đã quen “tối lửa tắt đèn,” quen hơi bén tiếng với nhau. Khi đi chỗ khác, họ bịn rịn không muốn lìa nơi mình đã “chôn nhau, cắt rốn.” Hơn nữa, đây cũng là chỗ họ đã dựa vào để mưu sinh như bán tạp hóa, cà phê, vé số hoặc bán trái cây dạo, đi làm công nhân… Tương lai với chỗ ở mới chưa hình dung được, phần nhiều họ đều lo lắng, ngỡ ngàng vì chưa thể biết được mình sẽ sống ra sao, “mần công chuyện gì” để sống.
Như anh Chánh, tuổi cũng đã “trọng trọng,” dù cả đời sống trên sình bùn hôi thối, nhưng cũng đã… “quen hơi bén mùi” rồi. Anh buôn bán ở đây từ sáng sớm đến 7-8 giờ tối cũng kiếm được một vài trăm ngàn mỗi ngày để nuôi sống mình cùng các con và người cô già yếu cũng đã ngoài 80 tuổi. Với tương lai cùng tiền tỉ được đền bù, dù sẽ “nhà cao cửa rộng” hơn, nhưng anh vẫn chưa biết được mình sẽ làm gì để nuôi sống gia đình.
Như chị Út Thơm, 58 tuổi, nhà ở số 319 Nguyễn Duy, đang sống cùng bốn người con mà nay đã lên chức bà nội, bà ngoại. Vốn đã thắm đượm “tình làng nghĩa xóm” với nhau, chị không khỏi bùi ngùi khi nghĩ đến cái cảnh mình sẽ xa rời nơi mình đã lớn lên, rồi có con, có cháu. Mai này đến một nơi lạ hoắc, chị khó mà kiếm lại được cảnh ngày ngày, chiều chiều cùng bà con hàng xóm ngồi tám với nhau đủ thứ chuyện trên đời trong cái tuổi cũng đã về chiều.
Tất cả đều vừa lòng với mức bồi thường để dời đi. Lo lắng lắm là những gia đình có nhiều thế hệ chung sống với nhân khẩu lên đến hàng chục người. Vì với vài ba tỷ mà chia năm sẻ bảy thì mỗi người chỉ còn vài trăm triệu, cao lắm cũng chỉ trên dưới 1 tỷ đồng thì tương lai họ khó có thể an cư giữa một Sài Gòn đắt đỏ, giá đất cao tới trời. Bên xe bán trái cây dạo trước nhà số 287 Nguyễn Duy, phường Hưng Phú, dì Năm Sa, 71 tuổi đã sống đời ở kiếp với kinh Đôi này. Dì Năm tâm tình, sống từ nhỏ đến… già, dân ở đây tuy tứ xứ nhưng cái tình chòm xóm với nhau nồng đượm dữ lắm. Trước, còn khỏe thì dì gánh trái cây bán dạo, gần hai chục năm nay mình đã luống tuổi nên phải “lên đời” cái xe đẩy cùng vài cái ghế nhựa, cái bàn để bán trái cây cho khách qua đường. Nghe dân quận 8 dữ dằn lắm nhưng với dân kinh Đôi thì họ sống với nhau rất bình yên, nặng chữ tình.
Ở con đường Nguyễn Duy, buổi tối xuống khi lên đèn rất là yên ả. Sau bữa cơm tối, là nhiều nhà kê ghế ra đường hóng gió rồi tụ lại để uống trà, đánh cờ và tán gẫu với nhau. Khoảng hơn 8 giờ là khu này gần như đóng cửa, chỉ còn xe, người qua đường cho đến sáng hôm sau. Nghe “tiếng dữ” của dân khu cầu Chánh Hưng, cầu Hiệp Ân nhưng nơi đây gần như vắng bóng các loại tệ nạn xã hội như hút chích, nhậu nhẹt, đâm chém, bài bạc, trộm cắp, gái gú… Dì cho biết, cứ mỗi ngày Rằm hay mùng Một là vài ba nhà khá giả ở khu này lại hùn tiền nấu một nồi “khủng” các thứ như: cháo lòng, cháo sườn, hủ tiếu, bún bò, bánh canh… phát không cho bà con nghèo xung quanh, một kiểu chòm xóm mời nhau một món ăn lấy thảo, như một mối dây bện thêm sự khắng khít cái tình làng nghĩa xóm. Cũng là một kiểu làm từ thiện không ồn ào, cũng chẳng cần đền đáp.
Dì Ba Lành, dì Năm Sa, ông Thới, anh Chánh, chị Út Thơm… như hàng ngàn cư dân ven kênh Đôi, dù băn khoăn, trăn trở về một ngày ra đi không xa nữa, có lẽ là mãi mãi. Họ cũng phập phồng đón chờ, ước vọng về một tương lai sáng sủa hơn, không phải cho mình mà cho những thế hệ cháu con đang lớn sau này. Họ ước vọng, những căn nhà, những hẻm xóm tù mù, ọp ẹp, hôi hám này của mình đang sống, nay mai sẽ là những mảng xanh mướt mắt bên dòng kênh trong xanh, có những ngôi trường sạch đẹp khang trang, những “nhà thương” sạch boong đi cùng với những chính sách an sinh cho đời sống, sức khỏe đến với dân nghèo và thế hệ con cháu sau này, đã nhiều đời sinh sống bên dòng kinh Đôi. Giờ đây, họ rồi sẽ thành một câu chuyện kể, một quá khứ ở kinh Đôi với nhiều mảnh đời bươn chải và chòi đạp để mưu sinh, để sống mà làm thành một cái đế, cái nền cho sự hồi sinh sáng lạn mai sau của con cháu.
Nói về tương lai của mình sau khi “giã biệt” mái nhà lụp xụp ven kinh, dì Ba Lành bùi ngùi: “Cả đời tui đã quen buôn bán loanh quanh với bà con kinh Đôi. Mai này, “cầm cả cục tiền,” đi mua nhà rồi kiếm cách làm ăn buôn bán mới, tui cũng chưa biết tính sao. Nếu dư dả, có tiền mua nhà được cái mặt bằng thì tui cũng mở tiệm tạp hóa, buôn bán kiếm sống qua ngày. Còn không thì cũng ngồi nhà, mong con cháu làm ăn khá giả có tiền cho mình chút đỉnh.” Dì nói thêm, chỉ lo cho mấy đứa con, đứa cháu. Tụi nó đi làm cho người ta, đứa thì chạy xe ôm công nghệ, không có nghề ngỗng gì. Nếu nhà nước có chương trình gì mà đào tạo nghề cho chúng, rồi giới thiệu việc làm cho thì tốt quá. Nếu không thì cũng cho chúng vay vốn để làm ăn.
Similar articles: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/thoi-su/viet-nam/




