Quốc hiệu Đại Việt xuất hiện vào thời kỳ nào?

by Tim Bui
Quốc hiệu Đại Việt xuất hiện vào thời kỳ nào?

ĐINH VĂN TUẤN

Theo Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) vào năm 1054, sau khi lên ngôi, vua Lý Thánh Tông: “建號曰大越” (đặt quốc hiệu là Đại Việt) và từ đó về sau các triều đại Trần, Hậu Lê, Lê Trung Hưng, Chúa Trịnh – Nguyễn vẫn sử dụng lại quốc hiệu này (quốc hiệu Đại Việt chỉ bị gián đoạn khi nhà Hồ cải quốc hiệu là Đại Ngu và chấm dứt vào thời nhà Nguyễn với quốc hiệu mới là Việt Nam). Hầu như mọi sử gia, học giả trong và ngoài nước Việt Nam từ xưa đến nay đều tin tưởng không chút hoài nghi là quốc hiệu Đại Việt do vua Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra.

Tuy nhiên sự xuất hiện quốc của viên gạch thời nhà Đinh ở Hoa Lư, trên mặt có quốc hiệu Đại Việt, đã đặt lại vấn đề về quốc hiệu Đại Việt thật sự có phải do Lý Thánh Tông đặt ra năm 1054? Hay thật ra nhà Lý chỉ dùng lại tên nước cũ từ thời Đinh mà thôi. Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng tôi sẽ tìm hiểu và xác định quốc hiệu Đại Việt đã xuất hiện vào thời kỳ nào, nhà Đinh hay nhà Lý?

 Trước hết cần phải giải đáp câu hỏi: Nhà Đinh có quốc hiệu là Đại (Cù/Cồ) Việt hay Đại Việt?

Các tài liệu cổ trước ĐVSKTT như Đại Việt sử lược (ĐVSL), An Nam chí lược (ANCL), Lĩnh Nam chích quái (LNCQ), Việt Điện u linh (VĐUL) hoặc trong các di vật khảo cổ và kể cả thư tịch Trung Quốc thời Tống đều không thấy Đại Cù Việt là quốc danh thời Đinh. Đáng chú ý là ĐVSL khi viết về Lý Bí (Nam Việt Đế) vẫn ghi chép về quốc hiệu nhà Tiền Lý là Vạn Xuân nhưng đến nhà Đinh dù ghi chép khá đủ về Đinh Bộ Lĩnh nhưng lại thiếu sót về quốc hiệu Đại Cù Việt. Đến ANCL khi ghi chép về nhà Đinh cũng không nhắc đến và cả LNCQ, phần Đinh Tiên Hoàng ký, dù soạn giả đã ghi chép kỹ về hành trạng Đinh Bộ Lĩnh từ thơ ấu đến khi làm Hoàng đế, đóng đô ở Hoa Lư, thiết lập triều nghi nhưng lại không biết gì đến quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt, chứng tỏ ngay cả trong ký ức dân gian xưa, trong truyền thuyết truyền miệng từ đời này sang đời khác đã vắng bóng ba chữ Quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt. Trong thơ văn chữ Nôm cũng không tìm thấy quốc danh Đại Cù Việt (Tuy trong Thiên Nam ngữ lục, câu 4102: “Nước xưng Đại Cù nối trời, cũng thấy chữ “瞿 ” trong tên nước nhà Đinh nhưng theo các nhà nghiên cứu Hán Nôm thì sách này có niên đại khoảng Lê -Trịnh nên cũng chỉ xuất hiện sau ĐVSKTT). Tài liệu duy nhất ghi chép về quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt 大瞿越chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư (Hiện nay còn lưu lại bản khắc in mộc bản Nội Các Quan Bảnniên hiệu Chính Hòa thứ 18, triều Lê Hy Tông, năm 1697) ở Bản Kỷ. Đinh Kỷ. Tiên Hoàng Đế: “戊辰元年 (宋開寶元年) 帝即位. 建大瞿越 (Mậu Thìn, năm thứ I [968], (Tống Khai Bảo năm thứ I) Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cù Việt).

Từ khi xuất hiện các viên gạch khai quật ở di chỉ khảo cổ Hoa Lư – Ninh Bình  và Hoàng Thành Thăng Long – Hà Nội có đóng in dấu Đại Việt quốc quân thành chuyên 大越軍城塼 (Gạch xây thành quân sự của nước Đại Việt) được các nhà khảo cổ học Việt Nam xác nhận thuộc niên đại cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI đã xác định quốc danh “Đại Việt 大越” được sử dụng vào triều Đinh và trở thành chứng cứ quan trọng phủ nhận quốc hiệu Đại Cù Việt và phủ nhận luôn quốc hiệu Đại Việt lần đầu tiên được đặt ra từ triều Lý Thánh Tông bởi vì nếu thời Đinh có quốc hiệu là Đại Việt, dĩ nhiên nhà Lý chỉ sử dụng lại quốc hiệu cũ chứ không phải là đặt tên mới.gdv

Trong ĐVSKTT, Quyển thủ. Toàn thư biểu – Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã viết: “…Tên gọi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, soạn thêm Hồng Bàng, Thục Vương là phần Ngoại Kỷ” vậy là Ngô Sĩ Liên đã đặt kỷ nhà Triệu mở đầu Bản Kỷ chứ không phải là kỷ nhà Đinh nhưng trong Khảo tổng luận, Việt giám thông khảo tổng luận, Lê Tung lại viết: “…Binh bộ thượng thư Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quán đô tổng tài là Vũ Quỳnh soạn bộ Việt Giám Thông Khảo, chép từ Hồng Bàng thị đến Mười hai sứ quân, tách làm Ngoại Kỷ, từ Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu Thái Tổ Cao Hoàng Đế của quốc triều đại định [thiên hạ] chép làm Bản Kỷ” và theo Phạm Công Trứ viết trong Tục biên thư:“Tương Dực Đế năm Hồng Thuận thứ 3 [1511], sai Binh bộ thượng thư kiêm Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan đô tổng tài Vũ Quỳnh soạn Đại Việt Thông Giám.” Vậy đã rõ, Vũ Quỳnh là người tôn vinh nhà Đinh như là một triều đại chính thống mở đầu Bản Kỷ – Nhà nước chính thức đầu tiên của lịch sử dân tộc Việt. Để bổ khuyết về quốc hiệu nhà Đinh từ thư tịch cổ, Vũ Quỳnh có thể đã sáng tạo ra 3 chữ Đại Cù Việt 大瞿越 (dĩ nhiên đã được vua Lê chuẩn y) với nghĩa: nước Việt lớn rộng mở, thông  suốt  khắp thiên hạ, rất xứng hợp với nhà Đinh, một nhà nước chính thống độc lập tự chủ, ngang hàng với nước Đại Tống và là một vương triều đặt dấu chấm hết 1000 năm Bắc thuộc.


      Thật đáng ngạc nhiên ĐVSL và ANCL, lại không hề ghi chép gì về sự kiện trọng đại vào năm 1054, Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu Đại Việt như ĐVSKTT. Nếu cho là tác phẩm viết “sơ lược” nên các soạn giả đã bỏ qua thì luận điểm này không thuyết phục vì sự kiện quan trọng là đặt quốc hiệu mới của nước nhà đối với sử gia là không thể xem thường để bỏ qua được và trong một tác phẩm sử – địa dù là sơ lược lại càng phải chú trọng nêu ra, bằng chứng là quốc hiệu “Vạn Xuân” của Lý Bí, Nam Việt đế đã được ĐVSL ghi nhận. Ngay cả VĐUL chuyên chép các thần linh nhưng khi viết về Lý Nam đế vẫn ghi nhận quốc hiệu “Vạn Xuân.” Chỉ có thể giải thích  hợp lý là thời Đinh và Lý thật sự không chính thức đặt ra quốc hiệu mới nên các soạn giả đã không ghi nhận. Trong văn khắc bia đá đời Lý có một tấm bia đã khắc quốc hiệu Đại Việt đó là bia Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi do Nguyễn Công Bật soạn, niên đại Thiên Phù Duệ Vũ 2 (1121), tuy nhiên cũng khoảng đời Lý, lại có tấm bia Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự, niên đại năm 1159 và chuông đồng Thiên Phúc tự hồng chung minh văn, cũng khắc tên nước là Cự Việt ở đoạn văn: Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc quyên trong nước Cự Việt. Sự xuất hiện cách viết khác nhau về tên nước như trên đã chứng tỏ vào đời Lý, không có quốc hiệu chính thức do vua ban bố thi hành. Vua Lý Thái Tổ trong Chiếu dời đô đã gọi tên nước là “Việt bang” và theo Văn hiến thông khảo đời Nguyên của Mã Đoan Lâm dẫn tài liệu đời Tống là Quế Hải ngu hành chí của Phạm Thành Đại và Tục tư trị thông giám cũng đã ghi nhận nhà Lý từng sử dụng ấn “Nam Việt quốc ấn” trên văn thư ngoại giao Tống – Việt. ANCL từng xác nhận vua Tống đã truy phong cho Lý Công Uẩn là Nam Việt vương và cuối đời Lý, bài Chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cũng đã từng gọi nước ta là Nam Việt quốc. Những tên nước đời Lý như Việt, Đại Việt, Cự Việt, Nam Việt đã cho thấy tên gọi nước phổ biến nhất chỉ là Việt (các chữ Đại, Cự, Nam chỉ là từ phụ). Trước đời Lý, đời Đinh cũng gọi tên nước là VIỆT, như gạch thời Đinh Đại Việt quốc quân thành chuyên và theo ĐVSL, vua Đinh Tiên Hoàng phong cho thái tử Đinh Liễn là “Nam Việt vương,” vương hiệu này đã được Đinh Liễn cho khắc vào cột kinh Phật bằng đá ở Hoa Lư và qua đời Tiền Lê cũng thế, nhà Tống phong cho Lê Hoàn là Nam Việt vương. 
         
      Tóm lại, với các bằng chứng thư tịch, di vật khảo cổ thì từ đời Đinh, Tiền Lê đến đời Lý đã xác định một sự thật lịch sử: Chỉ có tên gọi nước phổ biến là Việt và đứng trước chữ Việt có thể tùy ý dùng các chữ như Đại, Cự, Nam. Thông tin từ ĐVSKTT khẳng định vua Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra quốc hiệu Đại Việt là một ngộ nhận và sự ngộ nhận này có nhiều xác suất do tin tưởng vào thư tịch Trung Hoa. Tài liệu cổ Trung Hoa liên quan đến quốc hiệu Đại Việt đời vua Lý Thánh Tông, sớm nhất là sách Mộng Khê bút đàm của Thẩm Quát, đây là tài liệu cùng thời Lý Thánh Tông, sách có đoạn: Đến Nhật Tôn (tức Lý Thánh Tông), bèn tiếm xưng là “Pháp Thiên Ứng Vận Sùng Nhân Chí Đạo Khánh Thành Long Tường Anh Vũ Duệ Văn Tôn Đức Thánh Thần Hoàng Đế,” tôn (Lý) Công Uẩn là “Thái Tổ Thần Vũ Hoàng Đế,” quốc hiệu là Đại Việt. Sau đến Tống sử của Thoát Thoát cũng ghi chép đại ý như vậy: Nhật Tôn (Lý Thánh Tông) tự xưng Đế ở nước này, tiếm xưng là Pháp Thiên Ứng Vận Sùng Nhân Chí Đạo Khánh Thành Long Tường Anh Vũ Duệ Văn Tôn Đức Thánh Thần Hoàng Đế, tôn (Lý) Công Uẩn làm “Thái Tổ Thần Vũ Hoàng Đế,” quốc hiệu là Đại Việt. Hai thông tin trên đã xác định dữ kiện lịch sử: Bắt đầu từ Lý Thánh Tông mới tự xưng đế chứ trước đó Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông không xưng đế và thời điểm này trong nước có hay đang dùng quốc hiệu là Đại Việt (國號大越) chứ không hề xác định quốc hiệu mới đặt ra. Các sử gia của ĐVSKTT, chắc chắn đã tham khảo các tài liệu trên và tự suy diễn bằng đoạn văn: Đặt quốc hiệu là Đại Việt (建號曰大越), cách dùng chữ kiến (建) nghĩa là dựng lên, đặt ra như muốn khẳng định là Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra quốc hiệu Đại Việt.

      Như trên đã luận chứng, trước ĐVSKTT, sách ĐVSL và ANCL đều không nhắc đến sự kiện Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu Đại Việt và quan trọng nhất là sự xuất hiện hai chữ Đại Việt trên gạch thời Đinh, trước hết là bằng chứng phủ nhận quốc hiệu “Đại Cù Việt” thời Đinh do ĐVSKTT ghi chép và cũng phủ nhận luôn thông tin do ĐVSKTT khẳng định về Lý Thánh Tông đặt ra quốc hiệu là Đại Việt. 

        Kể từ khi ĐVSKTT khẳng định về sự kiện vua Lý Thánh Tông vào năm 1054 đã đặt ra quốc hiệu Đại Việt là từ đó về sau, mọi sử gia, học giả trong và ngoài nước cho đến nhà biên soạn sách giáo khoa, nhà giáo đều tin tưởng không chút hoài nghi  rằng đó là một sự thật lịch sử và vẫn mặc nhiên lưu truyền, giảng dạy phổ biến cho các thế hệ sau. Tuy nhiên qua tìm hiểu và khảo chứng từ thư tịch cổ Việt – Hoa và các chứng tích khảo cổ, chúng tôi phát hiện ra một sự thật lịch sử khác đã chứng minh thông tin của ĐVSKTT về quốc hiệu đời Lý là một sự ngộ nhận vì đã suy diễn lệch lạc từ thư tịch Trung Hoa.

 Sự thật là vào nhà Đinh, dù Đinh Bộ Lĩnh sau khi thống nhất đất nước, xưng đế nhưng vẫn không đặt ra quốc hiệu mới là Đại Cù Việt mà chỉ dùng tên gọi nước cũ, phổ biến (sớm nhất có thể bắt đầu từ Lí Bí với đế hiệu Nam Việt đế) là Việt như Đại Việt và Nam Việt. Sau đến nhà Tiền Lê, tên nước cũng thường gọi là Đại Việt, Nam Việt. Khi nhà Lý khởi nghiệp, từ đời Lý Thái Tổ đến Lý Chiêu Hoàng, trong nước vẫn thường xưng tên nước là Việt, Đại Việt, Cự Việt, Nam Việt, Việt bang.

Similar articles: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/lich-su/

You may also like

Verified by MonsterInsights