CHU TẤT TIẾN
Một sự kiện rất đặc biệt trong lịch sử của New York City cũng như lịch sử của nước Mỹ là lần đầu tiên, Zohran Mamdani, một ứng cử viên có đạo Muslim, cha mẹ là Ấn Độ và Uganda đắc cử chức vụ thị trưởng thành phố quan trọng nhất nước Mỹ. Quan trọng hơn nữa, ông thuộc thành phần Democratic Socialist, môt thiểu số nhỏ trong các sinh hoạt chính trị của Hoa Kỳ.
Trong bài viết này, chúng tôi không nhắc đến lý do tại sao một người gốc Á và Phi Châu lại thắng các ứng cử viên đầy triển vọng, mà chỉ nêu lên những sự khác biệt của các khuynh hướng Democratic Socialism (Dân Chủ Xã Hội), Socialism (Chủ nghĩa Xã hội), và Capitalism (Chủ nghĩa Tư Bản).
Thoạt nghe chữ Socialist đứng sau chữ Democratic, một số đông người Việt (ngay cả một số người Mỹ) đã dị ứng và cho rằng ông Thị Trưởng mới của New York là Cộng Sản vì theo họ, Chủ nghĩa Xã Hội (Socialism) cũng là chế độ Cộng Sản (Communism). Nhận định này hoàn toàn không đúng, vì thực tế Democratic Socialist đối lập với Socialist trên nhiều yếu tố. Chúng tôi mạn phép lần lượt phân tích như sau:
Chủ nghĩa Xã hội (Socialism)
Trước hết, Chủ nghĩa Xã Hội, theo định nghĩa của Karl Marx, là giai đoạn trung chuyển trước khi tiến lên chủ nghĩa Cộng Sản. Chủ nghĩa Xã Hội tập trung các phương tiện sản xuất và các nguồn lợi từ đất đai, khoáng sản, nguồn nước vào trong tay nhà nước. Nhà nước cho phép tư nhân sản xuất, nhưng với điều kiện là các cá thể sản xuất phải họp lại thành một mẫu số chung. Theo cương lĩnh của Chủ nghĩa Xã Hội, mọi người dân đã đóng góp vào dây chuyền sản xuất thì đương nhiên được hưởng quyền lợi theo tỷ lệ đóng góp của mình.
Tuy nhiên, vì nhân dân là một khối không đồng nhất cho nên phải có một Đảng duy nhất điều khiển mọi công việc chung và giám sát sự phân chia đồng đều cho mỗi cá thể. Chủ nghĩa Xã hội không tin tưởng là các cá nhân có thể tự định đoạt sự phân chia quyền lợi trong sự công bằng, nên nhà nước là công cụ để thực hành các tiến trình sản xuất cũng như phát triển kinh tế toàn dân, do đó không có việc bất cứ người dân nào cũng được ứng cử mà phải qua một quá trình tuyển chọn giữa các thành phần đã từng tham gia, đóng góp vào xã hội. Thực tế, sau hơn 100 năm thực hiện, lý thuyết này được coi là không tưởng (Utopia) vì chưa có quốc gia nào theo Chủ nghĩa Xã Hội đã áp dụng đúng cương lĩnh trên, trừ việc tập quyền lãnh đạo. Trong thế kỷ này, chỉ có năm quốc gia theo Xã hội Chủ nghĩa là: Trung Cộng, Cuba, Bắc Hàn, Việt Nam, và Lào.
Chủ nghĩa Dân chủ Xã hội (Democratic Socialism)
Chủ nghĩa Dân chủ Xã hội là một khuynh hướng kinh tế “Cánh tả” (1), một khuynh hướng yểm trợ cho yếu tố dân chủ thực sự trong chính trị và nền kinh tế xã hội, với sự nhấn mạnh đặc biệt về kinh tế dân chủ, về tính cách dân chủ tại nơi làm việc, thợ thuyền tự điều hành trong phạm vi thị trường xã hội, và trung ương đề xuất. Điểm khác biệt chính của Chủ thuyết Dân chủ Xã hội với Chủ nghĩa Xã hội là việc người dân được đi bầu để chọn người cầm quyền.
Như đã trình bày ở trên, Chủ nghĩa Xã hội không cho phép mọi người dân được tự do ứng cử và bầu cử, ngược lại Chủ thuyết Dân chủ Xã hội lại muốn cho xã hội thực sự do dân làm chủ, người dân được tự chọn ra người lãnh đạo, và để chống sự “ngồi lâu, sinh tật,” các lãnh đạo phải được chọn lựa theo từng chu kỳ như bốn năm, năm năm hoặc sáu năm và tối đa là hai nhiệm kỳ cho vị lãnh đạo quốc gia.
Vì tư tưởng này có tính chất cách mạng, đem lại hạnh phúc cho dân thực sự, nên hiện nay, có 15 quốc gia đang phát triển theo khuynh hướng này: Anh, Đức, Brazil, Tây Ban Nha, Úc, Na Uy, Uruguay, Albanie, Sri Lanka, Phần Lan, Iceland, Đan Mạch, Bỉ, Canada và Pháp. Ngoài ra còn một số quốc gia cũng đang thực nghiệm một hình thức chế độ tương tự như các quốc gia trên là Slovakia, Bolivia, Barbados, và Guana.
Ở các quốc gia theo khuynh hướng Dân chủ Xã hội, nếu lãnh đạo đi sai đường, lập tức bị dân chúng tẩy chay hay truất phế. Vì lãnh đạo bị kiểm soát bởi nhân dân, nên khó có cơ hội tham nhũng, tham quyền, phe đảng. Do đó, dân chúng được hưởng nhiều tiện nghi do chính phủ mang lại, nhất là y tế và trợ cấp tài chánh cho các gia đình nghèo (Welfare Program). Đặc biệt là ở Úc, những cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, sau khi thành công dân Úc, thì được hưởng quyền lợi như cựu quân nhân Úc, cho dù các cựu quân nhân miền Nam chưa từng phục vụ trong quân đội Úc.
Tuy nhiên, vì Chủ nghĩa Dân chủ Xã hội cũng đối kháng với chế độ Tư bản, nên người dân ít có cơ hội làm giàu thật lớn như ở Mỹ. Những người giàu ở những quốc gia theo khuynh hướng Dân chủ Xã hội, nếu đem so với những đại tỷ phú ở Mỹ thì kém xa các tỷ phú Mỹ có tài sản hàng ngàn tỷ đô la. Vì thế, tổng sản lượng quốc gia ở các nước Âu Châu theo Dân chủ Xã hội cũng thấp hơn tổng sản lượng của các nước tư bản.
Giai cấp tư bản ở các quốc gia này đã như thế, thì người dân cũng chỉ sống thoải mái nhưng không có cơ hội vượt lên làm giàu nhanh chóng như ở Mỹ. Những người Việt ở Pháp lâu đời, cho dù là bác sĩ, kỹ sư, dược sĩ, nha sĩ, cũng chỉ có lối sinh hoạt tương tự với giai cấp trung lưu ở Mỹ mà thôi, vì phải đóng thuế rất cao cho việc trợ cấp người nghèo. Tuy nhiên, họ vẫn sống thoải mái, bình yên, mà không xuống đường phản đối thuế má như ở Mỹ. Nhiều bác sĩ gốc Việt ở Pháp mở phòng mạch ngay trong nhà, ở tầng trên hoặc tầng dưới, để đỡ thuế. Vì thế, chỉ có các bệnh nhân ở gần khu vực đến khám bệnh mà thôi, do đó lợi tức của bác sĩ ở Pháp có khi thua lợi tức của y tá chuyên môn ở Mỹ.
Trở lại lịch sử của Chủ nghĩa Dân chủ Xã hội, các nhà sử học cho rằng lý thuyết này đến từ thế kỷ 19 qua các nhà chính trị học của Châu Âu và Anh, những người tiên khởi mở ra các cuộc kêu gọi chia sẻ những quyết định dân chủ chung và quyền sở hữu quần chúng về phương tiện sản xuất.
Từ cuối thế kỷ 19, đến đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa Dân chủ Xã hội bị ảnh hưởng rất lớn bởi các cuộc cách mạng xã hội ở Anh và Pháp. Dựa theo khuynh hướng này mà có các trào lưu khác nổi lên, tương tự vài phần, khác biệt nhiều phần như các khuynh hướng: Kình chống Tư bản (anti-capitalist), Chủ nghĩa Xã hội cải tiến (reformist socialism), Xã hội Sở hữu (social ownership), Cách mạng Xã hội chủ Nghĩa (revolutionary socialism), Mác-Xít nhân bản (Humanist Marxism), Chủ nghĩa Xã Hội Không Tưởng (utopian socialism), và Dân Túy Cánh Tả (left-wing populism.) Những khuynh hướng này mang tính cực đoan nên dần dần bị đào thải, chỉ còn chủ nghĩa Marxism là còn tồn tại cho đến thế kỷ 21, nhưng cương lĩnh đã được thay đổi nhiều theo đề án của Lenin, người tạo ra cuộc cách mạng Nga, lật đổ triều đại Nga Hoàng, nên còn được gọi chủ nghĩa Marxism-Leninism. Ở Việt Nam, Đảng Cộng Sản gọi tắt chủ nghĩa này là Chủ Nghĩa Mác-Lê.
Tóm lược, Democratic Socialist (Dân chủ Xã hội) có những đặc tính sau:
1-Tài sản công bao gồm hầu hết các kỹ nghệ lớn, dịch vụ, và hệ thống chuyên chở được tập trung vào chính phủ được bầu cử theo tính cách dân chủ.
2-Hạn chế tập trung tài sản (chống Độc quyền) nhưng không nhắm vào các tài sản cá nhân, nhà cửa và thương mại nhỏ.
3-Chính phủ đặt ra luật lệ về kinh tế.
4-Hỗ trợ tài chính công cộng và chương trình hưu trí
5-Giá cả thị trường và những điều kiện của dịch vụ thêm vào những sự nghiên cứu về tài chánh là thước đo của sự thành công.
Kết luận: Khuynh hướng Dân chủ Xã hội (Democratic Socialism) đang được thịnh hành trên nhiều quốc gia. Hiện thời, các nhà nghiên cứu xã hội chưa tìm ra được yếu tố xấu nào có hại cho dân chúng, cho nên có thể đến hết thế kỷ 21, đa phần nhân loại sẽ theo mô hình này.
Chủ nghĩa Tư bản (Capitalism)
Có hai quan niệm về Chủ nghĩa Tư bản, một của Karl Marx, kẻ tố cáo chế độ tư bản, hai là của những nhà nghiên cứu xã hội.
Thứ nhất, theo sách của Karl Marx, xuất bản năm 1868, dưới tựa đề bằng tiếng Đức: “Das Kapital” (The Capital, tiếng Anh; Tư Bản Luận, tiếng Việt), thì chủ nghĩa Tư bản là chế độ bóc lột sức lao động, những nhân công là nguồn lợi vô biên, đem lại lợi tức cho giới chủ nhân. Cũng theo Marx, những giao kết xã hội được điều hành bởi sự trao đổi hàng hóa. Giá trị kinh tế của xã hội được quyết định bởi giờ giấc lao động cần thiết cho xã hội. Trong chủ nghĩa Tư bản, các công nhân, nông dân được coi như món hàng để trao đổi. Khả năng tạo ra giá trị lao-động-“mới” khi được buôn bán, sẽ tạo nên lợi tức “mới” từ sự buôn bán chênh lệch này. Theo Karl Marx, những chủ nhân ông giàu có sẽ sở hữu cả phương tiện sản xuất và giá trị sản xuất. Từ những lý luận này, mà Lênin đã tạo ra cuộc cách mạng năm 1917, đòi đập tan chế độ Tư bản, đòi lại quyền làm chủ của toàn dân, và được sự đồng thuận của đa phần thế giới nghèo khổ. Mao Trạch Đông đã tận dụng lý luận này để làm cách mạng Trung Hoa, với dân số hơn 900 triệu người. Từ đó, cuộc cách mạng Trung Hoa (thường được gọi là Trung Cộng vì do Đảng Cộng Sản cầm quyền) đã lan ra nhiều quốc gia Á Châu khác, trong đó có miền Bắc Việt Nam.
Tuy nhiên, một quan điểm khác, thiết thực hơn và hiện đại hơn đó là ý niệm từ cuốn “The Capitalist Manifesto” (Tuyên ngôn Tư bản), xuất bản năm 2023, viết bởi Johan Norberg. Tác giả khẳng định rằng chế độ Tư bản cần thiết cho cả thế giới cùng giàu có và làm cho nhân loại tiến triển qua việc tự do thương mại, tự do thiết kế kỹ thuật và những sáng kiến làm cho kinh tế phát triển và nâng cao đời sống của hàng triệu triệu người nghèo khó.
Những yếu tố quan trọng của chế độ Tư bản “mới” được diễn giải như sau:
1-Khiển trách chế độ tập trung quyền lực kinh tế (độc tài). Sự tập trung quyền lực và kiểm soát làm cho suy sụp chế độ Tư Bản toàn cầu và tiêu diệt đời sống xã hội, đồng thời làm cho kinh tế chậm phát triển.
2-Phát triển Tự do kinh tế toàn cầu (Globalization and Economic Freedom): Tự Do Kinh Tế làm tăng tiện nghi cho đời sống nhân loại.
3-Chế độ Tư bản làm cho đời sống nhân dân phát triển mạnh mẽ.
4-Tuy nhiên, cũng trong chế độ Tư bản, với sự Tự do toàn diện sẽ tạo ra những bất công xã hội, người giàu thì giàu thêm, người nghèo thì nghèo thêm, cho nên, phải có lực lượng đối trọng để kiểm soát hành vi của chính phủ.
Dựa theo các nguyên tắc trên, Chủ nghĩa Dân chủ Xã hội đã công kích cả Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Tư bản. Dân chủ Xã hội cho rằng Chủ nghĩa Tư bản chưa đủ để đem lại công bằng xã hội, nếu không có một lực đối trọng, thí dụ như là công đoàn và các cuộc bầu cử công khai và trong sạch.
Dân chủ Xã hội kêu gọi những sửa đổi của Chế độ Tư bản thích ứng cho từng quốc gia.
Dân chủ Xã hội chú trọng đến sự kiểm soát của tòa án đối với ngành hành pháp; nếu không có sự bổ nhiệm công minh của lãnh đạo, dựa theo khả năng và tư cách, mà lại dùng chính sách “Phe ta”, bổ nhiệm toàn nịnh thần thì coi như kết cuộc thương đau sẽ đến cho dân chúng. Công lý sẽ bị chà đạp. Hiến Pháp sẽ bị lợi dụng và xuyên tạc sao cho giới giàu, tỷ phú được hưởng nhiều quyền lợi hơn là giới lao động.
Trên đây là tóm lược những yếu tố quan trọng trong cả ba chủ nghĩa. Hy vọng những diễn giải này sẽ làm sáng tỏ nhiều ngộ nhận, sau khi ông Thị Trưởng New York được dân chúng bầu lên.
Chu Tất Tiến
Tháng 12 năm 2025.
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/chu-tat-tien/
Chú thích:
Cánh tả là Liberal (phóng khoáng), không phải là Cộng Sản, đối lập với Cánh hữu là Conservative (Thủ cựu).
Tham chiếu:
https://en.wikipedia.org/wiki/Democratic_socialism
https://people.howstuffworks.com/democratic-socialist-vs-socialist.htm
https://www.bing.com/search?FORM=RA75DF&PC=RA75&q=how+many+countries+now+are+democratic+socialist%3F&ntref=1https://www.bing.com/search?q=the+capitalist+manifesto&qs=MT&pq=the+capitalist&sc=12-14&cvid=975CDE123EB54EB7BBE3201D7CC13F11&FORM=QBRE&sp=1&ghc=1&lq=0

