ĐINH VĂN TUẤN
Từ xưa đến nay người Việt vẫn thường dùng tiếng “nước” để chỉ về một lãnh thổ, có dân, có chủ quyền như ý nghĩa của chữ Hán quốc 國, nên đã hiểu quốc 國 là nước, quốc gia 國家 là nhà nước.
Phạm Quỳnh đã từng có câu nói nổi tiếng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” hay vua Bảo Đại với lời chiếu trước khi thoái vị: “Trẫm ưng làm dân của một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ” và Phạm Duy với ca từ: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời.”
Có lẽ trên thế giới không có một dân tộc nào gọi quốc gia bằng một tiếng trùng nghĩa với tiếng chỉ về chất lỏng tự nhiên là nước như dân tộc Việt. Tại sao người Việt gọi nước để chỉ quốc gia? Đây là một nét độc đáo của ngôn ngữ và tâm thức người Việt và là một vấn đề lý thú rất đáng tìm hiểu và lý giải.
Tự điển Việt – Bồ – La xuất bản năm 1651 của giáo sĩ Đắc Lộ đã có từ Nác: nước (chất lỏng) và Nác: vương quốc, Nước: đồng nghĩa; Cuốc, Nước: vương quốc. Vậy từ xưa (trước thế kỷ XVII) tiếng Việt có nác=nước có nghĩa là chất lỏng tự nhiên như nước mưa, nước giếng hay nước suối, sông, biển và cũng đồng nghĩa là quốc gia, vương quốc, đất nước.
Trong các truyền bản chữ Nôm thuộc hàng sớm nhất từ đời Trần đã thấy nước chỉ quốc gia:
Đời Trần:
– Cư trần lạc đạo phú (Trần Nhân Tông):
“Kinh xem ba biến, ngồi ngơi mé nước Tân La”
– Trần Trùng Quang tiễn Nguyễn Biểu đi sứ:
“Việc nước một mai công ngõ vẹn”
– Triều thần can vua đừng giữ Vương Tường:
“Hán Hồ đôi nước cách đề phong”
– Vương tường oán triều đình:
“Vực nước ví còn tài Vệ, Hoắc”
Hiện không có cứ liệu nào cho biết tiếng “nước” chỉ quốc gia đã có từ trước đời Trần nên trong giới hạn này chúng tôi đặt ra giả thuyết: Có thể từ đời Trần mới xuất hiện cách dùng tiếng nước (chất lỏng tự nhiên) để chỉ về lãnh thổ, có dân, có chủ quyền (quốc gia).
Qua bài viết Nhà ta: Người miền Dưới, Tạ Chí Đại Trường cho biết: gốc tích nhà Trần đời đời làm nghề đánh cá. Li Tana đã nhìn ra đó là đặc tính của tộc Đản ghi chép trong thư tịch Trung Quốc xưa, có nguồn gốc Giao Chỉ, gọi là “Giao Chỉ Đản” (Lĩnh ngoại đại đáp 1178) và còn lưu dấu đến bây giờ. Họ sinh sống dọc biển Quảng Đông, Quảng Tây… qua Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, mang các tên Thuyền Hộ, Đản, Đản Gia, Ngái, Soisangyang (Thuỷ Sinh Nhân), nói tiếng Quảng Đông. Người Đản tự gọi là “Người Sinh (từ) Nước.” Quế hải ngu hành chí (1175) của Phạm Thành Đại ghi rõ: “Đản là tộc man sống trên biển.” Họ được mang tên “Thuyền Hộ” cho là có chân ngắn, chỉ thích hợp với cuộc sống ở biển. Suốt đời họ sống trên thuyền, chỉ khi chết mới lên bờ chôn mà thôi. Họ thờ Thiên Hậu thần cá và thần rồng (ở Việt Nam có thờ). Sử ký triều đại không ghi nhận họ Trần thuộc tộc Đản nhưng các bằng cớ dân tộc học dựa vào chứng liệu lịch sử và suy đoán từ lời nói và sinh hoạt của họ lúc khởi đầu khiến ta nghĩ như thế. Trong các thần tích lưu giữ ở các đền thờ vùng tỉnh Thái Bình thì những người khởi đầu họ Trần đều mang tên các loài cá: Ông tổ đầu tiên (Trần) Kinh là cá Kình, Trần Hấp là cá Chắm/trắm, Trần Lí là cá Chép (lí ngư), Trần Thừa là cá Dưa, Trần Liễu là cá Nheo, Trần Cảnh là cá (Lành) Canh. Khi Nhân Tông xác nhận “Nhà ta người Miền Dưới – người vùng sông biển,” phải chăng đó là âm vang của tên tông tộc “Người Sinh (từ sông) Nước / Thuỷ Sinh Nhân?”
Dù thế nào, tổ tiên nhà Trần đúng là theo nghề đánh cá, chuyên sống trên sông nước và có tục xăm hình rồng. Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép việc Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đã nói: “Nhà ta vốn người vùng sông nước, đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ không quên gốc.” Chuyện về tộc Đản đã từng được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái (tục truyền do Trần Thế Pháp soạn khoảng đời Trần) ở Truyện Ngư tinh như sau: Có giống Đản nhân sống ở một cái gò trong biển, chuyên nghề bắt cá, sau biến thành người, giao dịch với Man dân đổi lấy thóc gạo muối, dao búa, thường qua lại ở Đông Hải. Cũng trong Lĩnh Nam chích quái, Truyện Hồng Bàng thị: Kinh Dương Vương cai trị đất Nam, lấy hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy phủ, lấy Long nữ, con gái Long Vương ở Hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long quân cho nối ngôi trị nước. Lạc Long quân lấy Âu Cơ đẻ ra 100 trứng. Lạc Long quân nói: Ta là nòi rồng đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên sống ở trên đất. Ta đem 50 con về Thủy phủ chia trị các xứ, 50 con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lạc Long quân dạy cho dân sống ở rừng và chân núi khi xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại phải dùng mực xăm vào mình theo hình Long quân để không bị hại.
Truyền thuyết người Việt đời Trần đã lưu giữ ký ức về đản nhân, Kinh Dương vương chuyên sống ở nước (thủy phủ), lấy long nữ, con gái long vương sinh ra Lạc long quân, nòi rồng, chuyên sống ở nước, tục xăm hình rồng, đã xác nhận gốc tích nhà Trần gắn liền với nước (sống ở miền biển, sông nước, chuyên đánh cá, tục xăm mình hình rồng).
Lưu ý, chữ Lạc 貉 trong Lạc Long quân, chính là chữ ký âm nác, nước của người Việt: chữ Lạc 貉 âm Hán thượng cổ là [glaag] gần với cổ âm người Việt là “lạc” nên có thể dùng để ký âm cho tiếng Mường – Việt là [rac], nghĩa là nước (nác). Lạc long quân 貉龍君 sẽ là vua rồng sinh sống ở nước [rac, nác], phù hợp với danh hiệu Lạc Long quân theo huyền sử: người sinh ra từ nước bởi mẹ là là Long nữ, con gái của Long vương, vương hiệu này để nhớ về quê mẹ, nguồn cội sinh ra từ nước của mình.
Tóm lại, chỉ từ đời Trần mới xuất hiện huyền thoại về Lạc Long quân, Đản nhân, dân Văn Lang có tục xăm mình hình rồng. Những huyền thoại này do Trần Thế Pháp (họ Trần) lưu truyền chắc là liên quan đến dòng tộc vương triều Trần có gốc tích từ nghề chài lưới, ở trên thuyền gắn bó với vùng nước trên biển, sông. Người nhà Trần sinh ra và sống gắn bó với nước, nên coi nước là sinh quán, nơi cư trú sinh sống, quê hương. Sau khi nhà Trần khởi nghiệp, dựng nước, lập vương triều thì rất có thể ban đầu vua Trần thích dùng tiếng nước để gọi thay cho quốc gia và sau đó từ quần thần đến dân chúng đều dùng theo.
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/dinh-van-tuan/
1.
