NGUYỄN TRỌNG HIỀN
Chùa Làng
Ngôi chùa đứng trơ trọi bên bờ sông, cách làng một quãng đi khá xa. Mặc dù năm nào con sông cũng tràn ngập vùng đất xung quanh, chưa bao giờ ai nhìn thấy nước chạm đến khu vườn của ngôi chùa. Có lẽ vì thế mà người ta không ngạc nhiên khi phải men theo con đường hẹp đi xuống sông rồi lại trèo qua những mảnh vườn và cuối cùng đến những bậc đá thô sơ dẫn đến ngôi chùa nằm lạ lùng trên một mỏm đá nhìn ra sông.
Các mảnh vườn có nhiều loại thực vật đáng ngạc nhiên từ hoa đến rau cỏ. Ở phía sau chùa mọc lên nhiều loại tre thân có những màu đặc biệt từ đen đến xanh lục và vàng. Trong một phần tư thế kỷ, nhà sư trụ trì đã cố gắng trồng nhiều loại hoa và tre khác nhau cho đến khi những thứ duy nhất còn sống sót được là những thứ có thể chịu được cả nước lũ vỗ vào mép sân chùa và sự khô khan của những tháng không có mưa.
Ngôi chùa khiêm tốn gồm một căn phòng nhỏ, gần như trống không với sàn nhà bằng đất sét cứng. Ở phía sau căn phòng, một bức tượng Phật bằng gỗ không to lắm, cũ và mòn được đặt trên một bàn thờ rất thấp. Một cái bát gốm lớn trông có vẻ thô sơ được đặt trước bức tượng và chứa đầy cát để những người thờ cúng có thể cắm nhang vào đó. Trang trí còn lại chỉ là những bông hoa tươi được mang từ khu vườn bên ngoài vào và được sắp xếp một cách tinh tế và nghệ thuật. Khách bàng quan chỉ liếc nhanh qua cách cắm hoa mà không cần suy nghĩ thêm. Tuy nhiên, một số nhỏ sẽ thấy rằng càng xem xét cách sắp xếp, những bông hoa càng trở nên đẹp và quyến rũ hơn, cho đến khi những người bị hoa mê hoặc quá lâu phải thực sự bị kéo đi ra ngoài.
Không có tượng thần, quái vật hay anh hùng dân gian thường thấy ở các chùa khác. Không có bức tranh cuộn hay những tấm sơn mài mô tả những cảnh tưởng tượng về niết bàn hay những sự kiện lịch sử Phật Giáo. Ngôi đền chứa những thứ tối thiểu cần thiết cho việc thiền định và cầu nguyện. Những người thờ cúng không được săn đón hay khuyến khích, nhưng họ vẫn đến vì danh tiếng của nhà sư trụ trì.
Nhà sư đó là Lê Duy Khánh, chú ruột của thầy Tâm. Ông là một nhà sư đã xuất gia sau khi quyết định rời bỏ một ngôi chùa lớn, nơi ông ta xuống tóc và phát nguyện sẽ dành phần đời còn lại của mình như một nhà tu khổ hạnh ở một chỗ nào khiêm tốn hơn. Ngay khi còn là một người mới tu nghiên cứu kinh điển Phật giáo và cố gắng hiểu những lời dạy của Đức Phật và các đệ tử của ngài, ông ta đã nhìn thấy hố ngăn cách ngày càng lớn giữa những lời Phật dạy và những gì đang được thực hành tại chùa.
Các nhà sư xung quanh ông quan tâm đến việc xây dựng quỹ của chùa hơn là khai sáng cho ai, kể cả những người mới tu, hoặc giúp đỡ những tín đồ đến lễ tại chùa. Họ dựa vào sự pha trộn giữa mê tín dị đoan và việc thực hành nghi lễ kéo thật dài để làm tê liệt giác quan và khiến những kẻ đến cầu nguyện và dâng lễ vật đâm ra sợ hãi hoặc hoang mang.
Sư Khánh đã sớm đi tìm một nơi để hành đạo sao cho gần với giáo lý của Đức Phật nhất, và không có cạm bẫy vật chất và hành trang lễ nghi nào như là tại nơi mà thầy đã thụ giáo và được tấn phong. Vì tính cách lập dị này, và cũng bởi vì gia đình thầy hầu như không đóng góp khoản tiền nào đáng kể cho chùa, cấp trên đã vui vẻ trả tự do cho thầy. Vì như thế ngôi chùa bớt đi một miệng ăn, và không ai trong chùa phải chịu những lời hoặc ánh mắt trách móc của sư Khánh.
Thầy tìm đến nơi người anh ruột đã an cư lạc nghiệp với tư cách là thầy giáo làng. Người anh đó đã dẫn sư Khánh ấy đến một ngôi chùa bỏ hoang, gần như bị che khuất sau cây cỏ dày đặc.
Ngôi chùa, một di tích đổ nát của sự hào phóng của một vị vua của triều đại nhà Lê vào thế kỷ thứ 18, hoàn toàn bị bỏ quên và hầu như không được người ngoài biết đến. Đó chính là loại chùa mà nhà sư Khánh muốn tìm kiếm.
Chùa trông bí ẩn và hấp dẫn, nhưng không có chỗ để bành trướng. Các vị trụ trì dù chỉ có một chút tham vọng cũng không thể sống ở đó mà không cảm thấy ngột ngạt bởi vị trí và kích thước của chùa. Sau khi các nhà sư ban đầu qua đời hoặc rời đi đến những nơi thờ cúng họ cho là xứng đáng hơn, ngôi chùa đã bị bỏ hoang. Bất cứ thứ gì có giá trị đều bị gỡ xuống, chở đi, và ngôi chùa bị cỏ cây dại bao phủ và bị mưa gió làm cho hao mòn dần dần.
Lúc đó nhà sư Khánh còn khá trẻ và tự cho mình nhiệm vụ khôi phục lại ngôi chùa và miếng đất xung quanh. Thầy đã mất nhiều năm lao động đơn độc không có ai khác giúp đỡ, ngoại trừ người anh trai thỉnh thoảng đến để giúp tay trong những công việc mà một người không thể đảm đương được.
Sau khi chùa được khôi phục sang trạng thái có thể ở được, nhà sư Khánh bắt đầu làm việc trên khu đất xung quanh, trồng hoa và rau để làm đẹp và nuôi sống mình, đồng thời dùng tre để đắp bờ phía Nam và ngăn nước xói mòn kéo chùa xuống sông. Thầy đã là một người đàn ông trung niên vào thời điểm những việc đó được hoàn thành. Trong những năm lao động chân tay, ông đã duy trì một chế độ thiền định để rèn luyện cả thể chất lẫn võ thuật. Khi đủ tuổi, cháu trai của ông, Tâm, đến tập luyện với ông.
Theo thời gian, danh tiếng của vị tu sĩ khổ hạnh Khánh ngày càng lớn. Tuy nhiên, ông tự coi mình là một người đàn ông bình thường đã chọn con đường từ bỏ bản thân và hy sinh trong khi những người khác phải vật lộn để nuôi nấng gia đình hoặc theo đuổi đồng tiền và danh lợi. Ông không coi mình hơn người khác vì điều đó. Ông không có gia đình riêng, và đời sống của ông đòi hỏi rất ít của cải vật chất.
Người đệ tử duy nhất sống với nhà sư Khánh là một cụ già trôi dạt vào chùa một hôm và sau đó không chịu rời đi. Cụ già không bao giờ nói bất cứ điều gì vì là một người câm điếc. Cụ tình nguyện làm việc chăm sóc vườn tược và nấu những món chay đơn giản mà hai người cùng ăn. Cụ già là người đã sáng tạo ra những kiểu cắm hoa đơn giản, tinh tế nhưng không kém phần quyến rũ. Làm thế nào mà cụ có được tài năng đó là một bí ẩn cho tất cả.
Một vầng hào quang thánh thiện nhẹ nhàng bao trùm nhà sư Khánh vì cuộc sống khổ hạnh của ông, nhưng điều thu hút những người bình thường đến với ông là ông sẵn sàng lắng nghe họ và đưa ra lời khuyên để giúp họ giải quyết những vấn đề trần tục bình thường hay phức tạp hơn trong cuộc sống của họ.
Những người đến hỏi ý kiến sư Khánh không nhận ra hoặc dường như không để ý rằng trong khi ông lắng nghe và thỉnh thoảng đặt câu hỏi, ông ít khi nói hay bảo họ phải làm gì. Họ sẽ quỳ trước mặt nhà sư ngồi bất động trong tư thế hoa sen, đôi khi hai tay giữ trong thế ấn vũ trụ, nhắm mắt lại. Họ trút bầu tâm sự của mình cho nhà sư, và trả lời khi nhà sư đặt câu hỏi. Sau đó là một khoảng thời gian im lặng kéo dài cho đến khi những vị khách đột nhiên nhận ra rằng ông đã dẫn họ đến một kết luận hoặc sự lựa chọn đúng đắn mà không cần nói ra. Hầu hết mọi người sau đó mỉm cười hoặc phá ra cười và đứng dậy đi về sau khi cảm ơn nhà sư. Một số cau mày và buồn bã trở về nhà, cho đến khi hoàn cảnh và các sự kiện sau đó cho họ thấy rằng nhà sư đã thực sự cho họ lời khuyên hữu ích qua các câu hỏi của ông, hoặc đã đoán một số sự kiện trong cuộc sống của họ.
Nhiều năm trôi qua, nhà sư dần nổi tiếng là một người linh thiêng có thể đoán được tương lai. Ông ta phủ nhận rằng mình có tài đó, nhưng danh tiếng của ông chỉ ngày càng gia tăng.
***
Một buổi sáng cuối thu mát mẻ, Cơ, nông dân vàng, đến chùa. Nàng đã tắm rửa và thay bộ quần áo mới và sạch sẽ. Nhìn từ phía sau, người quan sát sẽ tưởng nàng là một thiếu nữ mảnh mai và duyên dáng với dáng đi đung đưa vì phải gánh những thùng vàng hàng ngày với cây đòn gánh bằng tre. Tuy nhiên, khuôn mặt buồn bã với nhiều nếp nhăn lo lắng của nàng đã cho thấy hậu quả của hàng thập niên hối hận và thống khổ hàng ngày mà nàng đã phải chịu đựng.
Cơ bước vào thấy nhà sư đang tụng kinh trước tượng Phật. Nàng quỳ xuống sau lưng nhà sư, lắng nghe âm thanh của con mộc ngư mà nhà sư đang gõ nhịp nhàng.
Nhà sư Khánh cuối cùng cũng chấm dứt tụng kinh, rồi chậm rãi xoay người lại để đối mặt nàng. Nàng ngẩng đầu lên, nhà sư thấy khuôn mặt nàng đẫm nước mắt.
Mặc dù mọi người gọi ông là nhà sư trụ trì, ông không có danh hiệu Phật Giáo chính thức, và nàng vẫn gọi ông là thầy, một danh hiệu thông thường mà ông không phản đối.
“Thưa thầy, con đã làm tất cả những gì thầy khuyên bảo. Con cầu nguyện mỗi ngày, nhưng … con còn đau khổ hơn trước nữa.”
Nhà sư đợi nàng nói tiếp.
“Chồng con không nói gì, nhưng con nghĩ anh ấy biết.”
Qua đôi mắt khép hờ, nhà sư quan sát nàng và thế giới mà nàng mang theo khi đến chùa.
“Con trai của con đã tham gia quân nổi dậy. Anh ta bắt cóc con gái của ông xã trưởng và chỉ thả cô ấy sau khi thầy Tâm đến tìm cô ấy. Quan tuần phủ mới hiện đang lãnh đạo những toán lính hoàng gia chống lại anh ta và nhóm quân nổi dậy.”
Mặc dù sống ẩn dật, tin tức từ bên ngoài vẫn có cách đến với nhà sư. Ông đã biết những gì Cơ đang nói, nhưng vẫn giữ im lặng và để nàng kể lại mọi thứ theo nhịp độ của riêng nàng. Sự đau khổ của nàng là một bằng chứng nữa cho thấy thế giới thực sự là một biển khổ, rằng tất cả đều là đau khổ như sự thật cao quý đầu tiên của Phật Giáo đã nêu. Nhưng còn chân lý thứ hai theo đó tham ái, sân hận, si mê là nguyên nhân của đau khổ thì sao? Người phụ nữ này đã từng làm gì dẫn đến số phận hiện tại và những khó khăn về tinh thần cũng như thể chất mà nàng đã phải chịu đựng trong ngần ấy năm?
Cuối cùng, nàng chấm dứt độc thoại và một lần nữa trở thành người đàn bà dè dặt và khiêm tốn như mọi ngày, người mà thiên hạ không muốn tiếp cận mặc dầu xã hội cần nàng làm một công việc thiết yếu cho mọi người. Nàng chờ nhà sư nói.
Trong một số trường hợp, khi tất cả đã mất và không còn gì ngoài việc chấp nhận hậu quả, thì sự im lặng là điều tốt nhất mà nhà sư có thể đề nghị. Ông ta biết nàng đến chùa không mong gì hơn ngoài sự hiểu biết và thông cảm. Nàng biết đó là những điều nhà sư thường đề nghị. Nàng cũng đi chùa để học và hiểu thêm một số đoạn trong kinh điển. Lần này, nhà sư muốn cho nàng nhiều hơn trước đây. Ông ta nhắm mắt lại và chờ đợi một lúc lâu để những suy nghĩ và thị giác của mình được ổn định và mạch lạc.
“Con trai của chị sẽ gặp khó khăn và nguy hiểm, nhưng có thể vượt qua cả hai với sự giúp đỡ của chị.”
Nhà sư mở mắt ra và nhìn thẳng vào người mẹ. Nàng tự động cúi đầu và nhìn xuống đất. Nhà sư nhìn vào khoảng không phía sau mái tóc đen điểm một chút bạc và bị che khuất một phần bởi chiếc khăn choàng mà nàng đã quấn trên đầu.
“Chị là người duy nhất có thể giúp con trai.”
Nàng sững sờ ngước mắt lên, cố gắng thấu hiểu lời nói của nhà sư. Khuôn mặt ông ta ảm đạm nhưng nàng cảm thấy tấm lòng tốt của ông. Hình như nhà sư muốn nói rằng nàng nên tiết lộ sự thật mà nàng đã che giấu bao lâu nay, và nếu làm như vậy, sẽ không có tai họa nào xảy ra cho nàng. Sau một lúc im lặng ngắn ngủi, nàng nhận ra đó là tất cả những gì nhà sư muốn nói.
Nàng nhắm mắt lại và cố gắng loại bỏ hầu hết mọi tư tưởng trong đầu như nhà sư đã dạy, nhưng lại một lần nữa, cảm giác tội lỗi về những gì nàng đã làm cứ nổi lên từ đáy lương tâm của nàng.
Mọi chuyện bắt đầu từ nhiều năm trước khi nàng nhận ra mình đang mang trong bụng một đứa trẻ mà nàng không muốn có.
Chồng nàng lúc đó vẫn còn là một đứa trẻ nhút nhát, chưa bước vào tuổi trưởng thành, và cho đến lúc đó đã sống một cuộc đời trong trắng với một người vợ hơn anh nhiều tuổi. Nàng đã phải tự mình dẫn dắt anh ấy hoàn thành cuộc hôn nhân của hai người, khiến anh hoang mang trong nhiều ngày sau đó. Sau khi đứa bé ra đời, nàng quyết định yêu cầu anh bế đứa trẻ sơ sinh trên tay, hy vọng hành động đó sẽ đánh dấu địa vị làm cha của người chồng.
Bất chấp những nỗ lực của mình, Cơ không bao giờ có thể thụ thai được nữa, và Chính là đứa con duy nhất của cặp vợ chồng. Năm tháng trôi qua, chồng nàng dần dần xa cách Chính. Thỉnh thoảng, nàng bắt gặp anh ta nhìn con trai mình với vẻ mặt không biểu lộ một cảm xúc nào, nhưng anh ta thường quay đi nếu nàng đến gần. Sự căng thẳng khó nói thành lời trong nhà cuối cùng đã khiến Chính bỏ nhà ra đi ngay khi nghĩ rằng mình có thể tự lập. Cơ điên cuồng sợ hãi khi con trai bỏ đi, nhưng chồng nàng vẫn dè dặt và không hề bối rối, như trong suốt thời gian hai vợ chồng sống với nhau. Từ lúc đó nàng bắt đầu đến chùa. Nhà sư Khánh lắng nghe câu chuyện của nàng mà không bình luận gì, và bắt đầu dạy nàng cách cầu nguyện và thiền định.
Khi nàng mở mắt ra, nhà sư không còn ở đó nữa. Nàng lại quỳ xuống trước tượng Phật và lẩm bẩm lời cầu nguyện. Sau đó, nàng để lại đồ lễ dưới đất: một khúc xà phòng dài và vài chiếc bánh ngọt. Vì nhà sư không bao giờ lấy tiền, nàng thường để lại những thứ sẽ hữu ích cho hai ông già sống cô độc trong chùa. Nàng tự làm ra xà phòng từ dầu dừa và dung dịch kiềm từ tro củi, và những chiếc bánh từ gạo nếp non. Hầu hết dân làng đều đánh giá cao xà phòng của nàng nhưng ít người biết về những chiếc bánh cốm xanh. Nàng ít khi làm bánh cốm sau khi Chính, người tiêu thụ phàm ăn nhất, bỏ nhà ra đi.Trên đường ra khỏi chùa, nàng nhìn thấy nhà sư và đệ tử đang làm việc trong vườn. Hai ông già mải mê với công việc chân tay và không để ý gì đến nàng.
(Còn tiếp)
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/a-to-h/nguyen-trong-hien/