David Le
Quyết định thu thuế trên “doanh thu” ở mức 200 triệu đồng/năm đang là nỗi lo của tiểu thương cả nước và cũng là đề tài tranh cãi gay gắt trên nghị trường Việt.
Theo quyết định của nhà cầm quyền Việt Nam, từ ngày 1-1-2026 tất cả những người kinh doanh có mức thu 200 triệu đồng/năm buộc phải đóng thuế theo mức “doanh thu”. Nghĩa là mỗi hộ kinh doanh có mức doanh thu từ 200 triệu đồng/năm phải đóng thuế theo mức qui định. Muốn khấu trừ “đầu vào” phải có hóa đơn, chứng từ.
Từ bao đời nay, người buôn bán nhỏ, lẽ gọi chung là tiểu thương ở Việt Nam, phần lớn mua đầu chợ bán cuối chợ lấy gì ra hóa đơn? Đây cũng là truyền thống buôn bán nhỏ của người Việt từ rất lâu đời. Nay nhà cầm quyền quyết định, hễ có thu bất kể các chi phí khác đều phải răm rắp đóng thuế!
Với cách thu mới nầy đã và đang có rất nhiều tiểu thương đóng cửa hoặc sắp đóng cửa nghỉ buôn bán cho khỏe! Bởi họ không biết tìm đâu ra “hóa đơn” khi phải mua hàng trôi nổi, mua ở chợ, mua của những người buôn bán hàng sản xuất từ gia đình. Ví dụ một chị bán xôi, mua nếp có thể có hóa đơn nhưng mua lá chuối do một người lấy từ vườn nhà ra bán làm gì có hóa đơn. Rồi hành, mỡ, đường muối, giấy gó, bị ny lông…thường mua mỗi khi một ít làm sao có hóa đơn. Chưa kể phải đóng tiền chỗ cho địa phương hay chủ nhà cũng không có hóa đơn! Doanh thu mỗi năm có thể hơn 200 triệu đồng nhưng trừ đi các chi phí thì mỗi tháng chị kiếm được chừng 5 đến 10 triệu đồng đủ cho gia đình sống tiết kiệm! Vậy mà….
Trang VOV ghi nhận:
Chị Lê Thị Hồng, chủ một quầy bún trong ngõ nhỏ tại phường Hà Đông (Hà Nội), phản ánh doanh thu bình quân của quán chỉ khoảng 1-1,3 triệu đồng mỗi ngày, tương đương 30-40 triệu đồng một tháng. Sau khi trừ chi phí thực phẩm, tiền thuê mặt bằng 8 triệu đồng một tháng và chi phí điện nước, lợi nhuận ròng chỉ còn 7-9 triệu đồng. Mức này thấp hơn giảm trừ gia cảnh cho một cá nhân làm công ăn lương.
Tuy vậy, tổng doanh thu năm của chị vẫn vượt ngưỡng 200 triệu đồng, đồng nghĩa phải nộp thuế khoán và lệ phí môn bài như một hộ kinh doanh ổn định, trong khi thực tế lợi nhuận mỏng, không ổn định. “Doanh thu cao trên giấy, nhưng phần lớn là chi phí đầu vào. Lợi nhuận thực nhận không tương xứng với nghĩa vụ thuế”, chị nói.
Nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ như hàng nước, tạp hóa, quầy ăn sáng trên địa bàn Hà Nội đều có doanh thu vượt mức 200 triệu đồng một năm vì chi phí đầu vào và giá nguyên liệu tăng, chứ không phải mở rộng quy mô hay tăng lợi nhuận. Điều này cho thấy ngưỡng doanh thu 200 triệu đồng mỗi năm – được thiết kế từ bối cảnh giá cả thấp hơn nhiều năm trước – đang trở nên lạc hậu, chưa phản ánh đúng thực trạng kinh doanh nhỏ lẻ đô thị.
Theo số liệu từ Bộ Tài chính, đến cuối 2024, cả nước có 3,6 triệu hộ kinh doanh được quản lý thuế, trong đó gần 2 triệu hộ nộp thuế khoán. Mức thu bình quân mỗi hộ khoảng 672.000-700.000 đồng một tháng.
Trên nghị trường, vấn đề nầy là chủ đề tranh cãi gay gắt.
Theo ông Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín, ngưỡng doanh thu chịu thuế từ 200 triệu đồng với hộ kinh doanh là bất bình đẳng khi so sánh với người làm công ăn lương. Theo ông, doanh thu miễn thuế nên được tính bằng giá trị gia tăng của hộ kinh doanh tạo ra tương ứng với mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân của người làm công ăn lương.
Ông tính toán ngưỡng doanh thu 1 tỷ đồng là “hợp lý, phần nào tạo sự công bằng, bình đẳng giữa người nộp thuế”. Mức này cũng phù hợp với quy định hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên phải sử dụng máy tính tiền kết nối với cơ quan thuế, giúp chính sách có tính đồng bộ và tạo thuận tiện cho người nộp thuế.
Tương tự, theo Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam, bà Nguyễn Thị Cúc, nếu chia 200 triệu đồng cho 360 ngày, doanh thu bình quân chưa đến 600.000 đồng mỗi ngày. Với giá một bát phở 40.000 – 50.000 đồng, một quán chỉ cần bán khoảng 15 bát mỗi ngày đã vượt mốc doanh thu này.
Do đó, mức 200 triệu đồng một năm đã lỗi thời, cần nâng lên 1 tỷ đồng để phù hợp bối cảnh kinh tế hiện nay. Bà tính toán với doanh thu 1 tỷ đồng mỗi năm, lợi nhuận bình quân khoảng 16%, tương đương 160 triệu đồng, hay khoảng 13,3 triệu đồng mỗi tháng. Mức này tương đương thu nhập của một lao động làm công đang được áp dụng mức giảm trừ gia cảnh 15,5 triệu đồng.
Ở khía cạnh này, ông Nguyễn Ngọc Tịnh, Phó chủ tịch Hội Tư vấn và Đại lý Thuế TP HCM, cũng cho rằng ngưỡng miễn thuế bao nhiêu cần được xác định dựa trên các dữ liệu thống kê đáng tin cậy. Theo ông, nhà điều hành cần khảo sát diện rộng để xác định doanh thu, chi phí và biên lợi nhuận của hộ kinh doanh (thậm chí cụ thể theo từng lĩnh vực kinh doanh) trước khi ấn định ngưỡng này.
Theo ông Tịnh, chính sách thuế chỉ bền vững khi dựa trên dữ liệu đầy đủ và được điều chỉnh định kỳ (ví dụ 5 năm) theo các chỉ số khách quan như CPI hay GDP bình quân đầu người. Chính sách thiết thực sẽ tạo động lực cũng như phát huy hết vai trò của hộ kinh doanh trong cấu trúc nền kinh tế là tạo công ăn việc làm và trở thành vườn ươm khởi nghiệp.
Phân tích cụ thể hơn, ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính – Ngân hàng (Đại học Nguyễn Trãi) cho rằng hộ kinh doanh khác với một doanh nghiệp. Bởi, họ không chỉ là một chủ thể kinh tế mà còn là một cấu trúc xã hội mang tính gia đình. Nhiều hộ có 2-3, thậm chí 4 thành viên cùng tham gia sản xuất, buôn bán, phục vụ khách hàng. Tất cả lao động, thời gian, chi phí sinh hoạt, khấu hao tài sản gia đình… đều đan xen, không tách bạch như trong mô hình doanh nghiệp.
Nhiều trường hợp, doanh thu của hộ có thể lớn nhưng lợi nhuận ròng lại rất nhỏ, chỉ đủ để nuôi sống các thành viên gia đình. Nếu không tính đúng và đủ, việc nộp thuế sẽ thành gánh nặng, làm giảm động lực kinh doanh, khả năng tái đầu tư và ảnh hưởng đến an sinh của các hộ lao động tự do”, ông lưu ý.
Về giải pháp, chuyên gia cho rằng nhà điều hành cần xây dựng công thức xác định ngưỡng chịu thuế dựa trên bản chất kinh tế, không chỉ dựa trên doanh thu. Theo đó, cơ quan quản lý cần xác định doanh thu thực tế của hộ, khấu trừ chi phí hợp lý để tính lợi nhuận ròng. Đồng thời, phần lợi nhuận ròng cần được chia cho số thành viên lao động trực tiếp trong gia đình, sau đó so sánh thu nhập bình quân này với ngưỡng chịu thuế thu nhập cá nhân.
“Nếu thu nhập bình quân thấp hơn mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân, hộ đó chưa nên chịu nghĩa vụ thuế”, ông nói. Theo ông, cách tiếp cận này công bằng giữa hộ kinh doanh và người làm công ăn lương, các ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Phương pháp này cũng thể hiện tinh thần “đánh thuế theo khả năng nộp thuế, không đánh thuế vào sinh kế”.
Bên cạnh đó, chuyên gia cũng lưu ý chính sách thuế không thể “cào bằng”, bởi kinh tế hộ có sự phân hóa rõ rệt về biên lợi nhuận. Chẳng hạn, ngành thương mại – bán lẻ – đại lý có lợi nhuận thấp, thường 3-8% – tức doanh thu cao chưa chắc đủ sống. Dịch vụ ăn uống – lưu trú lợi nhuận tầm 8-15% nhưng chi phí đầu vào, mặt bằng, thất thoát cao. Dịch vụ cá thể (sửa xe, cắt tóc, sửa chữa điện nước) có thu nhập phụ thuộc công lao động, trong khi sản xuất thủ công nhỏ có nguyên liệu biến động, công lao động cao. Hay các dịch vụ chuyên môn nhỏ (kế toán, thiết kế, IT freelance) có lợi nhuận cao hơn, nhưng không ổn định theo mùa vụ.
“Một ngưỡng doanh thu phù hợp cho ngành này có thể bất hợp lý với ngành khác”, ông nói, cho rằng chính sách mới cần thiết kế theo hướng ngưỡng doanh thu chịu thuế phân theo nhóm ngành, bảo đảm sát thực tế và giảm xung đột. Ngoài ra, nhà điều hành có thể tính tới yếu tố vùng miền bởi chi phí sinh hoạt khác nhau sẽ có ngưỡng doanh thu khác nhau.
“Hà Nội, TP HCM có mặt bằng, thực phẩm, vận chuyển, nhân công đều đắt đỏ so với hộ kinh doanh ở các tỉnh miền núi. Cùng một doanh thu nhưng lợi nhuận thực tế ở thành phố lớn thường thấp hơn vì chi phí đầu vào cao gấp 2-3 lần”, ông dẫn chứng

