LÝ THÀNH PHƯƠNG
Các cứ liệu xưa cho biết, từ xa xưa, vùng đất Thừa Thiên–Huế từng là địa bàn giao tiếp của những cộng đồng cư dân mang nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, cùng cư trú và cùng phát triển. Trong thời kỳ phát triển của nước Văn Lang, tương truyền đây là một vùng đất của bộ Việt Thường.
Trong thời kỳ nước Nam Việt lại thuộc về Tượng Quận. Năm 116 trước Công Nguyên (TCN), quận Nhật Nam ra đời thay thế cho Tượng Quận. Trong thời kỳ Bắc thuộc, vùng đất này là địa đầu phía Bắc của Vương quốc Champa. Khi người Việt giành lại được độc lập, biên giới Ðại Việt đã mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306 công chúa Huyền Trân, “nước non ngàn dặm ra đi” làm dâu vương quốc Champa, vua Chế Mân dâng hai châu Ô, Rí (Lý) để làm sính lễ. Năm sau, vua Trần đổi hai châu này thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Hai châu này tiếp nối với vùng Quảng Bình và bắc Quảng Trị mà người Việt tiếp quản vào năm 1069 dưới thời nhà Lý, nó bao gồm vùng nam Quảng Trị đến đèo Hải Vân và Thừa Thiên ngày nay. Vùng đất này là địa bàn giao thoa giữa hai nền văn hóa lớn của phương Ðông Trung Hoa và Ấn Độ với nền văn hóa của các cư dân bản địa.
Với lời sấm truyền “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (một dải Hoành sơn, có thể yên thân muôn đời); năm 1558 chúa Nguyễn Hoàng xin vào trấn giữ xứ Thuận Hóa mở đầu cho cơ nghiệp của các chúa Nguyễn. Sự nghiệp mở mang của chín đời của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã gắn liền với quá trình phát triển của vùng đất Thuận Hóa. Hơn ba thế kỷ từ khi trở về với Đại Việt, Thuận Hóa là vùng đất của trận mạc, ít có thời gian hòa bình nên chưa có điều kiện hình thành được những trung tâm sinh hoạt sầm uất theo kiểu đô thị. Mãi cho đến năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của Kinh đô sau này.
Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là Phú Xuân, ở vị trí Tây Nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Ðàng Trong. Sự nguy nga bề thế của Ðô thành Phú Xuân dưới thời Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Đôn mô tả trong trong Ðại Nam nhất thống chí, là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bên bờ châu thổ Sông Hương. Phú Xuân là thủ phủ của xứ Ðàng Trong (1687 – 1774); rồi trở thành Kinh đô của nước Ðại Việt thống nhất dưới triều đại Quang Trung (1788–1801) và cuối cùng là Kinh đô của nước Việt Nam gần hai thế kỷ dưới triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1945). Phú Xuân đã trở thành trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa quan trọng của đất nước từ những thời kỳ đó.
Chữ Hóa, từ trong địa danh Thuận Hóa, có lẽ sau này được giáo sĩ Alexandre de Rhodes và những người Pháp phiên âm ra chữ Quốc ngữ thành Huế. Chữ Huế, sau này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần để chính thức trở thành địa danh của Huế bây giờ.
Thừa Thiên – Huế nằm gần như ở khoảng giữa của nước Việt Nam ngày nay. Trong thời kỳ các chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong, Huế được coi như một trung tâm hành chính, với tên gọi là Phú Xuân. Trong thời kỳ vua Quang Trung và sau đó là nhà Nguyễn kéo dài hơn 100 năm, Huế là thủ đô của cả nước. Ngày nay Huế mang danh vị của một cố đô với Cấm Thành và nhiều lăng tẩm của các vị vua triều Nguyễn.
Trên phương diện chủng tộc, cũng như người Quảng Bình và Quảng Trị, người Thừa Thiên – Huế có nguồn gốc di dân từ Nghệ-Tỉnh. Sau này khi Nguyễn Hoàng xây dựng sự nghiệp trong Nam, đã mang rất nhiều người gốc Thanh Hóa vào lập nghiệp ở Huế, thành thử từ văn hóa, phong tục giọng nói cũng như ẩm thực rất giống người Thanh Hóa.
Văn hóa Huế
Tọa lạc bên bờ sông Hương xanh biếc êm đềm vốn xưa nay vẫn chảy lững lờ qua lòng đô thị chính là quần thể kiến trúc nghệ thuật Kinh đô Huế được xây dựng dưới triều Nguyễn. Ở bờ Bắc dòng là Kinh thành – Hoàng thành và Tử Cấm Thành với hàng chục cung điện vàng son lộng lẫy. Xa xa ở phía Nam sông Hương là những lăng tẩm của các vị vua từ Gia Long đến Khải Định, và Đàn Nam Giao (nơi vua tế trời đất). Đây được xem như những công trình nghệ thuật tuyệt đẹp giữa chốn đồi núi linh thiêng này. Sự hài hòa giữa kiến trúc thiên nhiên của kinh thành Huế đã đạt đến mức tuyệt diệu và hoàn chỉnh. Kinh thành được xem là một thành lũy có hình ngôi sao mà về đêm trông như một vì tinh tú đẹp lung linh, huyền ảo.
Kinh thành Huế được thiết kế như một thành lũy với cả một hệ thống phức hợp các công trình kiến trúc liên quan chặt chẽ với nhau và mang tính phòng thủ vững chắc, bao gồm các bộ phận chính kể từ thành ra bên ngoài như: luỹ, pháo đài, tường bắn, pháo nhãn, phòng lộ, hào, thành giai, con đường kín. Hình khối kiến trúc của những công trình trong kinh thành Huế là mái thẳng, đường nét thanh nhã phù hợp với những cấu kiện gỗ hướng đến chiều cao được xác định phù hợp với tỷ lệ. Rõ ràng, sự hài hòa giữa kiến trúc và tạo hình thời Nguyễn phản ánh mối giao hoà tâm lý “Thiên – Địa – Nhân” sâu sắc của người Huế. Chính mỹ thuật dân gian đã phả vào mỹ thuật cung đình một sức sống mới; ngược lại mỹ thuật cung đình trang nhã, trang trọng tác động trở lại khiến cho mỹ thuật dân gian thêm phần sinh động. Chính sự tương tác bổ sung đó đã tạo cho kinh thành Huế có sức sống bền bỉ và mang trong mình những giá trị văn hóa lớn lao trường tồn đến hôm nay.
Vùng đất kinh đô xưa đã tạo cho người dân nơi đây một phong thái thanh tao, cao nhã nhưng rất đằm thắm nhẹ nhàng, điều này không chỉ có ở những phi tần, mỹ nữ, những vương tôn quý tử trong Hoàng thành mà còn lan tỏa trong tầng lớp nhân dân. Cái phong thái cao nhã ấy nó ẩn hiện ngay từ tiếng “dạ, thưa” mềm mại từ cái dáng đi nhẹ nhàng uyển chuyển trong chiếc áo dài tím thướt tha, để giờ đây Huế như một viên ngọc tím huyền ảo mà ai cũng biết tới.
Ai đã từng đến Huế, từng nói chuyện với người dân nơi đây hẳn sẽ thấy ngay được ở họ sự thân thiện mến khách và rất nhiệt thành. Mặc cho thời gian có qua đi nhưng nghe tiếng “dạ” tiếng “thưa” nhẹ nhàng dễ nghe thì ai cũng có thể nhận ra giọng Huế – người Huế như lời bài hát “Tình yêu từ chiếc nón Bài Thơ; Từ giọng nói ấm trầm sâu lắng lạ”. Và có lẽ thế mà người Huế có tiếng hát cũng mượt mà và đằm thắm hơn ai hết. Lên thuyền Rồng dạo trên sông Hương vào buổi tối mát rượi mùa hè để nghe Nhã nhạc cung đình Huế hẳn sẽ khó lòng quên được cái thiết tha, sâu lắng trong mỗi câu ca.
Con người Huế dù đi đâu về đâu thì hình ảnh khắc sâu trong tâm khảm họ chính là chiếc áo dài. Cho đến những năm 1970, con gái Huế ra khỏi nhà là mặc áo dài, kể cả chị tiểu thương ở chợ hoặc bà bán hàng rong. Áo dài Huế không chấm gót như áo Sài Gòn, cổ áo cao vừa phải, có áo cũng thắt đáy lưng ong, nhưng lại không bó quá, tà cũng không xẻ quá cao.
Trong những đặc trưng văn hóa lâu đời của Huế thì sự đa dạng cầu kỳ trong cách chế biến thức ăn góp một phần không nhỏ vào việc hình thành nét riêng xứ Huế. Món ăn Huế giản dị, phong phú, mang hương vị đằm thắm của sản phẩm nơi đồng ruộng, đầm phá, núi sông đất cố đô song cũng không kém phần sang trọng tinh tế với cách bài trí món ăn mang tính nghệ thuật của các món ăn cung đình.
Huế còn có những món ăn đặc sản như bún bò giò heo, mà nổi tiếng nhất là bún Gia Hội, chợ Tuần. Bên cạnh đó còn hàng chục loại bánh mặn, ngọt mà ai đã một lần nếm thử, hẳn không quên được những món quà đặc sắc chốn kinh kỳ. Đó là các loại bánh nổi tiếng gắn liền với các địa danh: bánh khoái – Đông Ba, bánh bèo – Ngự Bình, bánh canh – Nam Phổ, bánh ướt thịt nướng – Kim Long… Chè Huế cũng phong phú không kém với 36 loại chè khác nhau, đủ sức hấp dẫn du khách trong buổi tối mùa hè nóng nực đi dạo mát hai bên bờ sông Hương: chè bột lọc bọc thịt quay, chè hạt sen bọc long nhãn, chè đậu ván, chè đậu xanh đánh, chè đậu ngự, chè đậu huyết… món nào cũng đem tới cho ta sự thích thú đặc biệt và ấn tượng khó quên khi đến Huế.
Trích Ánh Tuyết (Báo Kinh tế Việt Nam)
_________________________________
Ai ra xứ Huế
DUY KHÁNH
Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về sông Hương
Nước sông Hương còn vướn chưa cạn
Chim núi Ngự tìm bạn bay về
Người tình quê ơi người tình quê thương nhớ lắm chi
[ Lyrics from: http://www.lyricenter.com ]
Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về Vĩ Dạ
Ai về là về Nam Dao
Dốc Nam Dao còn cao mong đợi
Trăng Vĩ Dạ ngọt lời câu thề
Người tình quê ơi người tình quê có nhớ xin trở về
À ơi à ơi !
Chứ cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp
Vì thương nhau rồi chớ xin kiếm về mau
À ơi ơi à! Hò ơi!
Kẻo rồi mai tê bóng xế qua cầu
Thì bạn còn thương bạn chứ biết gởi sầu về nơi mô
À ơi ơi à!
Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về Vân Lâu
Bến Vân Lâu còn sâu thương nhớ
Thuyền Bến Ngự còn đợi anh về
Người tình quê ơi người tình quê, có nhớ xin trở về
Người tình quê ơi người tình quê, chứ có nhớ xin trở về…
Hỡi ai!
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/i-to-p/ly-thanh-phuong/
