Vùng đất biên thùy Thất Sơn – An Giang: độc đáo và huyền bí

by Tim Bui
Vùng đất biên thùy Thất Sơn - An Giang: độc đáo và huyền bí

NGUYỄN HUY

Bắt đầu từ Tết đến tháng Tư Âm lịch, dòng người đổ về hành hương tại miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc ngày một dài. Người ngoại tỉnh hay du khách cứ ngỡ rằng văn hóa ở xứ sở này chỉ có thế. Vậy nhưng, ai đó dừng chân ở đây trong một thời gian đủ lâu, và dụng công tìm hiểu sẽ ngạc nhiên nhận ra rằng có quá nhiều điều thú vị trong mọi mặt của đời sống ở vùng đất biên thùy còn nhiều điều huyền bí này.

Dấu ấn tiền nhân người Việt

Khi nhắc đến vùng đất Thất Sơn huyền bí, điều đầu tiên phải kể đến là dấu ấn của tiền nhân đi khai hoang, mở đất. Nếu như Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh là tướng tiên phong trong việc đặt nền móng nền hành chính toàn cõi Nam bộ, thì Thoại Ngọc Hầu, tên thật Nguyễn Văn Thoại, là người ghi dấu ấn đậm nét cho sự phát triển tại vùng biên trấn Châu Đốc và toàn tỉnh An Giang. Tài kinh bang tế thế của Thoại Ngọc Hầu đã được thấy rõ nét nhất qua hai công trình kinh Thoại Hà và kinh Vĩnh Tế. 

Con kinh Thoại Hà nối liền huyện Thoại Sơn thuộc tỉnh An Giang và vùng Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang. Ngày ấy, hai tỉnh lỵ này gần nhau nhưng không có đường bộ để lưu thông, buộc phải đánh một vòng đường thủy rất lớn vượt sông, vượt biển mới đến nơi. Kinh Thoại Hà được Thoại Ngọc Hầu chỉ huy xây dựng đã tạo nên giao thông thuận lợi về thủy lộ và cả việc trồng trọt. Con kinh dẫn nước ngọt từ sông vô tứ giác Long Xuyên vốn ngập nước quanh năm giúp đất xả phèn, mặn; đồng thời dẫn thủy nhập điền cho nông dân có nước tưới tiêu trồng trọt. Dựa trên tầm nhìn này, về sau rất nhiều con kinh đào khác được đào để dẫn nước ngọt và An Giang biến thành vựa lúa cả nước.

Tương tự, con kinh Vĩnh Tế dài 80km từ Châu Đốc tới Hà Tiên được đánh giá là một trong những công trình kinh tế, quân sự lớn nhất thời điểm đó. Không chỉ thuận lợi về giao thông, mở phòng tuyến biên giới vững chãi, mà còn giữ vai trò thủy lợi vô cùng hiệu quả.

Một vùng đất hoang rộng lớn từ Châu Đốc kéo dài qua Hà Tiên, nhờ có nước tưới đã trở thành một vùng trồng lúa trù phú. Để tri ân Thoại Ngọc Hầu, dân chúng đã xây đền và lăng thờ ông ngay chân núi Sam. Đây là di tích lịch sử quốc gia của tỉnh An Giang ngày nay. 

Những bậc tiền hiền cũng nhớ ơn Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã xây đình thờ ông ngay tại vị trí gần bờ sông Châu Đốc. Đây cũng là di sản văn hóa quốc gia mà ai muốn tìm hiểu văn hóa nên ghé qua.

Hiện nay, tại Châu Đốc có bốn dân tộc sinh sống. Người Việt đã đến đây hồi 300 năm trước, lúc ấy nơi này là vùng đất hoang thưa người. Người Việt, người Hoa, Chàm và người Khơ-me cùng quần tụ trong buổi đầu khí hậu còn rất khắc nghiệt, địa lý còn nhiều cách trở. Họ sống hòa thuận và làm ăn buôn bán bên nhau như anh em một nhà từ mấy trăm năm nay và biến vùng đất khó sống này thành một nơi trù phú của phương Nam đất nước.

Vì có bốn cộng đồng dân tộc chung sống nên vùng đất có nhiều nét văn hóa độc đáo, phong phú. Ngày Tết của người Việt và Hoa giống nhau nhưng Tết người Khơ-me diễn ra vào tháng Tư Tây lịch, và tết người Chàm vào tháng Bảy Tây lịch. Phong tục lễ cưới và ma chay của người Việt – Hoa– Chàm – Khơ Me khác nhau. Trang phục truyền thống cũng khác nhau. Kiến trúc truyền thống được thấy trong nhà ở của người Việt, Chăm, Khơ- me khác nhau. Riêng người Hoa không có nét đặc trưng riêng trong kiến trúc nhà ở. Nhưng kiến trúc đình chùa của bốn dân tộc thì thấy được sự khác nhau rất rõ rệt.

Về ẩm thực, mỗi dân tộc có những nét đặc trưng riêng và đồng thời có sự giao thoa. Ẩm thực Chăm khá đa dạng nhưng tựu trung lại có các món được chế biến từ thịt gà, thịt dê, bò. Người Chăm không ăn thịt heo vì tín ngưỡng. Món cari dê của người Chăm được xem là một trong những món độc đáo nhất nhì trong ẩm thực của dân tộc này. Ngoài ra, món tung lò mò (giống như lạp xưởng) là thứ mà du khách đến đây nên thử một lần. Ẩm thực người Khơ-me rất hấp dẫn mà lượt sơ qua các món như gà đốt, ếch dồn sả nướng, cháo bò, nước thốt nốt. Món ăn của người Hoa nên thử khi đến Châu Đốc là món cháo quảng, các món mì, bao tử heo khìa và món gà hầm, hoặc bao tử hầm.

Ẩm thực Việt tại vùng Châu Đốc vô cùng phong phú. Trước tiên nói về món cá. Đây là vùng đất hạ nguồn của dòng Mekong và biển hồ Tonle Sap của Campuchia nên cá sông đa chủng loại. Về sau này, do sự thay đổi thượng nguồn nên nguồn cá tự nhiên không còn nhiều, thay vào đó, dân chúng đã lấy giống và nuôi trong lồng bè, hầm đào. Vì ngày xưa cá nhiều ăn không xuể nên người Việt đã chế biến thành khô, mắm. Vì vậy, Châu Đốc cũng được mệnh danh là vương quốc mắm. Từ đây, dân Việt có một món ăn trứ danh là lẩu mắm. Nước cốt của nồi lẩu này rất đặc trưng nhờ nấu từ mắm cá linh, cá sặc, cá chốt tùy thích. Nguyên liệu đi kèm là thịt heo ba rọi [hoặc thịt quay], cá basa, cá bông lau hoặc bất kỳ cá gì. Tuy nhiên, có nhiều người thích ăn thêm thịt bò, tôm, mực cũng rất ngon. Điều không thể thiếu trong món lẩu mắm là mâm rau ăn kèm lên đến vài chục loại.

Ngoài ra, du khách đến Châu Đốc, muốn ăn cơm món thì có thể chọn canh chua cá kho tộ nhưng món ăn phổ biến nhất là bún cá. Món bún cá này có nguyên liệu chính là cá lóc, nồi nước soup gồm xả, ngải bún, nghệ… tạo nên một mùi thơm dễ chịu, mùi vị nhẹ thanh, và rất dễ tiêu hóa.

Món bún cá bình thường chỉ có thịt nạc cá. Nếu thực khách yêu cầu thì thêm đầu cá dính với cái ruột béo ngậy, hột vịt lộn, chả lụa, heo quay tùy thích. Vài năm trở lại đây, bên con lộ mới dọc kinh Vĩnh Tế nối Châu Đốc – Tịnh Biên – Hà Tiên mọc lên vài quán bán món ăn dân dã. Tại đây luôn có các món ăn “mùa nào thức nấy” bao gồm cá, rắn, lươn, chim, và nhiều thứ đặc sản địa phương.

Hương vị lưu dấu không phai trong niềm nhớ của lữ khách từ phương xa tới.

Tôn giáo bản địa, tín ngưỡng dân gian và giai thoại bùa chú

Tại An Giang nói chung và Châu Đốc nói riêng có bốn tôn giáo lớn gồm Phật giáo nguyên thủy Nam tông và Phật giáo Bắc tông, Thiên chúa giáo, Tin lành, và Hồi giáo. Điều độc đáo ở đây là có 3 tôn giáo do người Việt sáng lập gồm Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, và Phật giáo Hòa Hảo. 

Vị sáng lập ra Bửu Sơn Kỳ Hương là ông Đoàn Minh Huyên, được tín đồ gọi là Phật thầy Tây An. 

Vị sáng lập ra Tứ Ân Hiếu Nghĩa là ông Ngô Lợi. 

Vị sáng lập ra Phật giáo Hòa Hảo là giáo chủ Huỳnh Phú Sổ. 

Cả ba tôn giáo này ra đời lần lượt trước sau, nhưng đều nằm trong thời gian người Việt chống thực dân Pháp. Điểm giống nhau tiếp theo là cả ba tôn giáo đều dựa trên nền tảng Phật giáo nhưng đưa vào những lời giáo huấn phù hợp với phong tục, tập quán và tâm thế Việt. Cả ba tôn giáo đều mang đạo vào đời, ở đó tín đồ được dạy không xuất gia vô chùa, mà ở tại gia làm việc kiếm cái ăn để lo việc tu hành và giúp đời thông qua từ thiện. Đương nhiên, vì ra đời trong bối cảnh chiến tranh giành độc lập nên cả ba tôn giáo đều giương cờ chống Pháp để thực hiện giáo lý tứ đại trọng ân, gồm: ân tam bảo – ân tổ tiên cửu huyền – ân đất nước – ân đồng bào nhân loại.

Trong giới hạn của bài viết này, chỉ lược sơ qua vài nét của ba tôn giáo bản địa. Ai đó muốn tìm hiểu kỹ hơn chắc phải dành một khoảng thời gian khá dài để khám phá ra nhiều điều rất hay trong giáo lý, cũng như đời sống của các tín đồ vùng đất này. Được biết, trong nhiều năm qua, nhiều học giả phương Tây đã đến nghiên cứu về những nét riêng biệt của ba tôn giáo kể trên. Trong đó, nhiều vị đã hoàn thành luận án tiến sĩ về Phật giáo Hòa Hảo. Riêng nhà văn Lý Lan có một tiểu thuyết được chú ý với tiêu đề Bửu Sơn Kỳ Hương. Đây là một tác phẩm văn học đáng đọc.

Bên cạnh các tôn giáo chính thống, vùng Thất Sơn có tín ngưỡng dân gian Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam. 

Câu chuyện về bà chúa xứ được kể lại nhiều phiên bản khác nhau, nhưng ý nghĩa tận sâu của giai thoại là người dân cần một chỗ dựa tinh thần qua hình ảnh một người mẹ. Ở vào thời bối cảnh địa hình còn hoang sơ, khí hậu khắc nghiệt, con người quá nhỏ bé trước thiên nhiên, họ cần một người phù hộ độ trì. Nhưng chẳng rõ thực hư những lời cầu nguyện Bà Chúa Xứ ban ơn, theo truyền miệng của nhiều người, trở thành hiện thực. Thế nên, thời gian qua đi, lượng người có niềm tin vào Bà Chúa Xứ càng lớn. Giờ đây, mỗi năm ước tính có hàng triệu lượt khách về Núi Sam hành hương. Điều này đóng góp rất lớn vào ngân sách địa phương.

Bên cạnh đó, hoạt động mê tín dị đoan mang tính tà đạo cũng lan rộng. Vào những ngày rằm và nhiều dịp lễ, số lượng người tứ phương về các miếu nhỏ thờ ông hổ, ông rắn trong các hẻm núi Cấm, núi Két, Núi Sam để lên đồng rất đông. Lực lượng chức năng nỗ lực triệt phá nhưng có thể do địa hình quá rộng nên không thể kiểm soát hết. Bùa chú cũng là thứ được nhắc đến nhiều ở vùng đất này. Theo giai thoại, tại đây có các thầy bùa Lỗ Ban, bùa Miên, bùa Chàm. Công năng của các loại bùa này đa dạng và tồn tại âm thầm nhưng mạnh mẽ.

Văn hóa Óc Eo của vương quốc Phù Nam cổ xưa

Từ rất lâu, những nhà khảo cổ khám phá ra tại huyện Thoại Sơn có di chỉ văn hóa Óc Eo thuộc vương quốc Phù Nam cổ xưa. Những nền móng của đền đài, đồ trang sức, tượng thần đã được tìm thấy trong khu vực này. Dưới lớp trầm tích ấy, người ta đã lần về quá khứ xa xưa, thuở Phù Nam còn là vương quốc hùng mạnh. Sau này, Chân Lạp là tên gọi khác của Khơ-me đã đánh chiếm, xóa sổ Phù Nam nhập vào Chân Lạp và gọi vùng đất này là Thủy Chân Lạp. Cũng có giả thuyết cho rằng, vương quốc Phù Nam bị xóa sổ bởi một trận đại hồng thủy nhấn chìm.

Dấu ấn văn hóa Hindu tại các di chỉ, hiện vật được tìm thấy tại Óc Eo và nhiều nơi khác ở An Giang làm người ta liên tưởng đến Hindu trong đền Angkor tại Siem Reap – Campuchia. Chứng tỏ rằng có một thời kỳ Ấn Độ giáo có một sự lan tỏa rộng lớn và có sức mạnh vô song trước khi suy tàn ở vùng đất Đông Nam Á. Tại huyện Thoại Sơn ngày nay, có một bảo tàng văn hóa Óc Eo để dân chúng hiểu về lịch sử vùng đất này.

Tựu trung, vùng Thất Sơn huyền bí có một sự đa dạng về văn hóa. Những du khách nào xem du lịch là hành trình để khám phá những điều lạ trong văn hóa bản địa, thì An Giang là một nơi lý tưởng. Cảnh sông nước, cảnh núi non hòa quyện vào ruộng lúa và rừng cây thốt nốt tạo ra một vẻ đẹp độc đáo rất riêng. Nếu thật sự muốn khám phá có chiều sâu, du khách sẽ mất một khoảng thời gian rất dài.

Nguyễn Huy

Bắt đầu box

Có nhiều miếu Bà Chúa Xứ ở miền Tây Nam bộ

Ngày 4/12/2024 tại Paraguay, UNESCO ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam (thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang) là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là di sản thứ hai ở Nam bộ được danh hiệu này nhưng là di sản đầu tiên thuộc một tỉnh cụ thể. Trước đó, Đờn ca tài tử được ghi danh vào năm 2013 cho 21 tỉnh, thành phố phía Nam.

Lễ hội Vía Bà nói riêng và tín ngưỡng Bà Chúa Xứ Núi Sam nói chung là thực hành văn hóa đặc thù ở vùng biên giới Tây Nam, có sức ảnh hưởng và lan tỏa lớn. Hiện nay, đây là lễ hội thu hút khách hành hương đông nhất Nam bộ, được công nhận là Lễ hội quốc gia vào năm 2001, trở thành Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2014. Bên cạnh niềm tin tâm linh, xoay quanh tín ngưỡng này có nhiều yếu tố văn hóa khá đặc biệt.

Danh xưng Bà Chúa Xứ bắt nguồn từ Po Yang Inư Nagar (tạm dịch: Thần Mẹ Xứ Sở) của người Chàm ở miền Trung. Nhưng vị thần này có nguồn gốc sâu xa từ nữ thần Uma (vợ thần Shiva) trong văn hóa Ấn Độ, được người Chàm tiếp nhận và bản địa hóa. Đến với người Việt, Po Yang Inư Nagar được tiếp nhận và phiên âm chữ Hán là Thiên Y A Na. Ngoài ra trong dân gian, các danh xưng Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Xứ, Thượng Động Cố Hỷ… là những “phiên bản” Việt hóa của Po Yang Inư Nagar.

Tuy nhiên, đây chỉ là nguồn gốc về danh xưng. Trên bình diện niềm tin và thực hành tín ngưỡng, người Việt ở Nam bộ hầu như không cho rằng mình thờ cúng vị thần nào đó gốc Chăm hay gốc Ấn. Tại đây, Bà Chúa Xứ là một nữ thần, có vai trò bảo hộ cư dân trong một khu vực nào đó. Dân gian quan niệm rằng, Bà là vị thần phúc hậu, nhân từ, luôn che chở và giúp đỡ con người. Bà Chúa Xứ được xem như “mẹ” của vùng đất, nên có thêm mỹ hiệu chữ Hán là “Chúa Xứ Thánh Mẫu.”

Một số người còn nhận định, Bà Chúa Xứ có quyền lực lớn hơn Thành Hoàng Bổn Cảnh, vì Thành Hoàng là phúc thần bảo hộ mỗi làng xã cụ thể, còn Bà Chúa Xứ cai quản vùng đất rộng lớn hơn, có thể gồm nhiều làng xã. Dĩ nhiên, đây là quan niệm dân gian, không thể chứng minh rạch ròi. Nhưng về phía triều đình, Thành Hoàng Bổn Cảnh có mặt trong hệ thống thần linh mang tính điển chế và được sắc phong, còn Bà Chúa Xứ là thần linh dân gian, lai lịch và công trạng không rõ ràng, không có sắc phong. Trong khi đó, vốn có cùng cội nguồn với Bà Chúa Xứ, nhưng Thiên Y A Na là thần linh quan trọng được sắc phong với thứ bậc cao hơn Thành Hoàng.

Có nhiều Bà Chúa Xứ khác nhau ở miền Tây Nam Bộ, thường gắn với địa danh một khu vực cụ thể. Chẳng hạn, tỉnh An Giang có Bà Chúa Xứ Bàu Mướp (Tịnh Biên), Bà Chúa Xứ Cô Tô (Tri Tôn), Bà Chúa Xứ Tây Phú (Thoại Sơn), Bà Chúa Xứ Vàm Xáng Cây Dương (Châu Phú)… Đa phần các miếu Bà Chúa Xứ thường hình thành lâu đời. Như vậy, Bà Chúa Xứ Núi Sam là một danh xưng thần linh cụ thể, trong tín ngưỡng Bà Chúa Xứ nói chung, chứ không phải Bà Chúa Xứ các nơi khác là “phiên bản” của Bà Chúa Xứ Núi Sam.Tuy nhiên về sau, do ảnh hưởng của Bà Chúa Xứ Núi Sam, một số nơi có xu hướng tích hợp vị thần này vào tín ngưỡng sở tại. Điển hình, miếu Bà Ngũ Hành ở Nhà Bè (Sài Gòn) được gọi là “miếu Bà Châu Đốc 2.” Dân gian xem miếu Bà Ngũ Hành ở Nhà Bè là một “chi nhánh” của Bà Chúa Xứ Núi Sam, người nào không tới được Châu Đốc thì có thể đến miếu này cúng bái. Đây cũng là một dạng thức sáng tạo mang đậm tính dân gian, thể hiện sự cởi mở của người Nam bộ, kể cả trong đời sống tâm linh.

Du khách nước ngoài tại Làng Chăm Đa Phước, một điểm đến, trên hành trình khám phá văn hoá bản địa vùng Châu Đốc – An Giang

Cảnh hoàng hôn ở Tri Tôn – An Giang

Đua bò, một lễ hội rất hấp dẫn của đất An Giang

Núi Cấm nhìn từ xa

Similar article: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/ky-su-lang-chai-my-thuy/

You may also like

Verified by MonsterInsights