Tại sao chúng ta tự xưng là người “Việt”        

by Tim Bui
Tại sao chúng ta tự xưng là người “Việt”

ĐINH VĂN TUẤN

Từ xưa đến nay dù ở trong nước hay ngoài nước, chúng ta đều tự nhận mình là người “Việt.” Tuy nhiên nếu có ai hỏi tại sao lại gọi là Việt và danh xưng này có nguồn gốc từ đâu, xuất hiện lúc nào? Đa số chúng ta dù trí thức hay bình dân đều bối rối, mơ hồ và không trả lời rõ ràng được. Ngay cả giới nghiên cứu, học giả, sử gia cũng mỗi người mỗi ý, chủ quan tranh luận, lập giả thuyết…mà vẫn chưa làm sáng tỏ vấn đề này một cách khoa học.

Bài viết này sẽ thử truy nguyên danh xưng Việt theo dòng lịch sử để hy vọng tìm ra căn nguyên vấn đề một cách tương đối thuyết phục, theo tinh thần khoa học. 

Trước khi tìm hiểu vấn đề trên, người viết cần phải phân định, nhấn mạnh một số điểm như sau: 1. Không bàn luận về gốc tích người Việt Nam vì vấn đề này quá sâu rộng và nan giải, đến nay vẫn chỉ là giả thuyết; 2. Không nghiên cứu sâu về từ nguyên, chiết tự hay ngữ âm lịch sử của chữ Hán 越 (âm Hán Việt là Việt) vì chữ 越 là của người Trung Quốc dùng để gọi nước Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, Bách Việt…không liên quan trực tiếp đến người Việt xưa nay; 3. Chỉ tìm hiểu những bằng chứng lịch sử (thư tịch, di vật khảo cổ) của Trung Hoa và Việt Nam liên quan trực tiếp đến danh xưng VIỆT của  người Việt Nam hiện nay.

Huyền sử Việt Nam chỉ nói đến Kinh Dương Vương nước Xích Quỷ, vua Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, sinh bọc 100 trứng nở ra 100 người con trai là tổ tiên của Bách Việt. Người con cả được tôn lên làm Hùng Vương nước Văn Lang. Thục Phán xâm lược nước Văn Lang, xưng là An Dương Vương nước Âu Lạc, sau Âu Lạc bị Triệu Đà nước Nam Việt thôn tính, thành thuộc địa Nam Việt. Huyền sử không cho biết lúc ấy con dân  nước Xích Quỷ, Văn Lang, Âu Lạc tự xưng là gì? Huyền sử là truyền thuyết không phải chính sử nên không thể tin cậy nhưng bắt đầu từ khi mảnh đất Việt cổ bị nội thuộc nước Nam Việt thì nước Việt cổ chính thức đi vào thư tịch cổ Trung Quốc (lúc ấy người Việt cổ chưa có chữ viết). 
         
Sử ký của Tư Mã Thiên (đời Hán) cho biết Triệu Đà là người Hán ở huyện Chân Định, vốn là quan lệnh huyện Long Xuyên của nhà Tần. Sau khi nhà Tần bị tiêu diệt vào năm 206 TCN, theo kế thoát ly nhà Tần để cát cứ của quan úy Nam Hải là Nhâm Ngao trước khi chết, Triệu Đà liền giữ chức quan úy thay cho Nhâm Ngao và lập tức giải phóng quận Nam Hải, đánh chiếm quận Quế Lâm, Tượng rồi tự làm vua xưng là Nam Việt Vũ vương, quốc hiệu Nam Việt (đất, người Việt ở phương Nam). Vương hiệu này, vào năm 196 TCN cũng đã được Cao đế nhà Hán phong nhận và từ đây thiết lập ngoại giao giữa nhà Triệu và nhà Hán. Nước Nam Việt bắt đầu chính thức xuất hiện trong lịch sử. Thời Cao Hậu (241 – 180 TCN), Triệu Đà tranh chấp, tuyệt giao với nhà Hán và tự xưng là Nam Việt Vũ đế. Đây là lần đầu tiên ở Lĩnh Nam xuất hiện một đế vương ngang hàng với Trung quốc.

       Năm 111 TCN nhà Hán tiêu diệt nước Nam Việt, tuy nước Nam Việt của Triệu Đà xuất hiện và biến mất khỏi lịch sử nhưng danh xưng “Nam Việt” vẫn chưa bao giờ bị tiêu vong. Trên mảnh đất Việt cổ nhỏ bé, là nạn nhân của 2 cuộc chiến tranh giữa Thục Phán và Hùng vương, Triệu Đà và An Dương vương dẫn đến số phận nghiệt ngã là bị nội thuộc nhà Hán, theo Đại Việt sử lược thì hơn 6 thế kỷ sau, lịch sử lại chứng kiến  danh hiệu “Nam Việt” qua cuộc quật khởi của Lí Bí chống lại nhà Lương (thời Nam Bắc triều). Năm 544, Lí Bí chiến thắng quân Lương, giải phóng Giao Chỉ và tự xưng là “Nam Việt đế,” lấy niên hiệu là Thiên Đức và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một người Việt cổ đã tiếp nối hào khí xưng đế của Triệu đà xưa kia và tự đặt niên hiệu để khẳng định sự độc lập, ngang hàng với Trung Quốc. Điều cần khẳng định là Lí Bí không hề có ý phục quốc của Triệu Đà vì ông đã dựng nước mới với quốc hiệu là Vạn Xuân. Danh hiệu “Nam Việt đế” của Lí Bí  chính là muốn trở thành một hoàng đế của người Việt phương Nam như Triệu Vũ đế của nước Nam Việt ngày xưa vậy. Hơn 5 thế kỷ sau, kế thừa thành quả xưng vương và độc lập của Ngô Quyền sau khi đánh thắng quân Nam Hán (Ngũ đại thập quốc) vào năm 939, vị hoàng đế thứ hai của lịch sử Việt Nam đã xuất hiện sau khi dẹp nội loạn và thống nhất đất nước rồi xưng đế vào năm 968 là Đinh Tiên Hoàng, người sáng lập ra nhà Đinh và đặt niên hiệu là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng chính là người đặt dấu chấm hết thời đại Hán thuộc bằng việc nhà Tống phải thừa nhận và coi trọng một quốc gia độc lập thống nhất và thiết lập ngoại giao Tống – Việt. Sau khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng phong cho con Đinh Liễn là “Nam Việt vương.” Đặc biệt là viên gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây quân thành nước Đại Việt) có di chỉ khảo cổ đời Đinh xác nhận quốc hiệu Đại Việt đã có sớm nhất từ đời Đinh chứ không phải đời Lý Thánh Tông như bấy lâu lầm tưởng. Một lần nữa ta lại thấy danh xưng “Nam Việt” xuất hiện, đặc biệt là quốc danh “Đại Việt.” Chính vào thời Đinh, xuất hiện một quốc gia “Đại Việt” phương Nam độc lập tự chủ tồn tại riêng biệt với Trung Quốc phương Bắc, khẳng định người dân Đại Việt có văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, nếp sống khác hẳn tộc Hán. Đời Lý, tuy thường dùng quốc hiệu là Đại Việt, nhưng vẫn thấy quốc danh khác như “Việt”, “Cự Việt” và đặc biệt là theo tài liệu Hán như Quế Hải ngu hành chí , Tục tư trị thông giám , nhà Lý từng sử dụng ấn “Nam Việt quốc ấn” trên văn thư ngoại giao Tống – Việt. Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép vào cuối đời Lý, trong bài chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng có ghi nhận “Nam Việt quốc.” Các triều đại đời Trần vẫn thường dùng quốc hiệu Đại Việt, nhưng qua bài tựa sách An Nam chí lược Lê Tắc đã tự nhận mình “sinh trưởng ở đất Nam Việt” và thường dùng danh xưng Giao Chỉ, An Nam để gọi nước ta thời cổ, tuy nhiên còn gọi nước Việt, đất Việt, người Việt và cho biết năm 989, nhà Tống đã truy phong Lê Hoàn làm Nam Việt Vương và Quan cáo sứ Lý Độ nhà Tống đi qua Nam Việt (chỉ nước ta thời Trần). Sách Lĩnh Nam chích quái (Tản viên sơn thánh) đời Trần đã từng nói đến “phía Tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt.” Ngoài ra đời Trần còn thấy quốc danh “Việt Nam” như sách Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc. Các triều đại đời Hậu Lê vẫn thường dùng quốc hiệu Đại Việt tuy vậy bài tựa Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh đời Lê cũng nhắc đến “nước Nam Việt” và Nguyễn Trãi (đời Lê) là tác giả của Nam Việt dư địa chí. Đời Mạc, qua Việt sử diễn âm, tác giả đã dùng quốc danh “Nam Việt” cho các đời Hùng vương, Triệu Ẩu, họ Khúc, nhà Đinh, Lý. Từ đời Lê Trung Hưng (Trịnh-Nguyễn) đến nhà Nguyễn, ngoài quốc hiệu Đại Việt, quốc danh “Nam Việt” vẫn được sử dụng phổ biến trên các văn bản cổ, bia mộ như ở các sách Nam Việt địa dư trích lục, Nam Việt địa đồ quốc hiệu sơn thủy bảo hóa cựu lục, Nam Việt Tiền Triều loại biên, Tiền Lê Nam Việt bản đồ mô bản , Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị, Sử ký Đại Nam Việt quốc triều, Nam Việt lược sử, Sử ký Nam Việt và bia mộ của Thiên vương Thống chế Lê Văn Quế, nhân vật Nguyễn Văn Chí …

Vào năm 1802 chúa Nguyễn Phúc Ánh chiến thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long. Vua đã sai chánh sứ Lê Quang Định sang nhà Thanh xin cầu phong và đổi quốc hiệu cũ là An Nam thành Nam Việt. Tuy nhiên, vua Gia Khánh nhà Thanh đã nhất quyết không đồng ý vì sợ “Nam Việt” trùng với tên nước của Triệu Đà bao gồm đất Quảng Đông và Quảng Tây và có thể sau này Gia Long viện cớ, động binh đòi lại đất. Sau mấy lần thư từ qua lại, cuối cùng nhà Thanh đã đồng ý với quốc hiệu VIỆT NAM thay cho 2 chữ “Nam Việt.

Về sự kiện vua Gia Long đổi quốc hiệu, tài liệu Việt – Thanh còn lưu lại như sau: Đại Nam thực lục cho biết vua Gia Long sai Lê Quang Định sang cầu phong và xin đổi quốc hiệu, trong quốc thư nói, các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã bình định được toàn cõi Việt, nên khôi phục hiệu cũ để chính danh. Vua Thanh cho rằng chữ Nam Việt giống tên nước cũ của Quảng Đông, Quảng Tây nên không muốn cho. Vua hai ba lần phục thư để biện giải, lại nói nếu vua Thanh không cho thì không chịu phong. Vua Thanh sợ mất lòng nước ta, mới dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước, lấy chữ Việt đặt ở trên để tỏ rằng nước ta nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ta mở cõi Nam giao mà chịu mệnh mới, tên xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà phân biệt với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở Trung Quốc. 

Theo lời thuật lại của chánh sứ Trịnh Hoài Đức viết trong bài Tự tự của sách Cấn Trai thi tập như sau: Đốc phủ Lưỡng Quảng bảo chúng tôi ở tỉnh Quế chờ sứ bộ sau đến rồi cùng tiến kinh và cho rằng trong biểu thỉnh phong có lời xin phong quốc hiệu là Nam Việt, rất giống với hiệu cũ Lưỡng Việt nên sợ bị quân cơ đại thần của Thiên triều quở trách. Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Ngọc Đình bắt trả lại nguyên biểu, khiến đổi lại quốc hiệu cũ là An Nam. Nước ta không chịu theo mệnh vì An Nam từng là hiệu cũ. Nên Tuần phủ Tôn Ngọc Đình, Bố chính Công Nga, Án sát Thanh An Thái, ân cần mời sứ bộ, nhiều lần biện giải khúc mắc, khuyên sứ ta nên nhanh chóng sửa biểu văn gửi về tâu. Chúng tôi bày tỏ việc này chẳng phải là việc của người xuất sứ mà do Hoàng thượng quyết định. Việc xin quốc hiệu, bên kia thì muốn theo yêu cầu của họ, nước ta thì không chịu nghe theo. Thư từ qua lại, bàn luận chưa xong. Tổng trấn Bắc Thành đã cho người qua tỉnh Quế thám thính tin tức. Tháng 4 năm 1803, Thiên triều bàn nghị dựa theo tờ biểu sau cùng đã cho phép sứ bộ hoãn lộ trình tiến kinh. Từ đó mới được phong quốc hiệu là Việt Nam, tất cả đã qua bàn nghị điều hoà, tốt đẹp và trọn vẹn đôi bên.

         Qua đó có thể thấy rõ thái độ cương quyết của Gia Long không kém Gia Khánh khi thư từ về việc đổi quốc hiệu. Gia Long còn gây áp lực nếu Gia Khánh không đổi quốc hiệu, sẽ không chịu phong. Rất căng thẳng và nan giải. Cuối cùng Gia Khánh đã phải chuẩn nhận yêu sách đổi quốc hiệu của Gia Long, tuy không phải là Nam Việt mà là VIỆT NAM nhưng cũng chứng tỏ sự nhượng bộ của Thiên triều. Lần đầu tiên trong lịch sử các triều đại Việt Nam, vua Gia Long đã dám đối mặt với thiên triều Trung Quốc để công khai xin thay đổi quốc hiệu cũ của các đời trước là An Nam. Có thể nói, trước Gia Long, không một vị vua nào ở các triều đại trước làm được. Đây là một sự khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền độc lập của đất nước ta.  

Đầu năm 1804, sứ Thanh là Án sát Quảng Tây Tề Bồ Sâm đến Thăng Long để tuyên phong vua Gia Long là “Việt Nam Quốc vương.” Theo Đại Nam thực lục, Vua Gia Long ban chiếu định ngày 17 tháng 2, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam. Việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa. Từ đó trở về sau, quốc hiệu VIỆT NAM chính thức đi vào lịch sử và không thay đổi cho đến tận ngày nay (dù có lúc bị thay đổi là Đại Nam vào đời vua Minh Mạng hay có lúc vẫn dùng quốc danh Nam Việt, An Nam…).

Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9/3/1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố xóa bỏ các hiệp ước với Pháp và thành lập chính phủ vào ngày 17/4/1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Sau khi Đế Quốc Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14/8/1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9/1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Hiệp ước Élysée ký ngày 8/3/1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại, thành lập Quốc gia Việt Nam, là danh xưng của 1 phần vùng lãnh thổ Việt Nam thuộc quyền kiểm soát của quân Pháp, trực thuộc khối Liên hiệp Pháp, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa. Năm 1975, chấm dứt nội chiến hai miền Nam Bắc. Ở trong nước quốc hiệu “Việt Nam” vẫn còn lưu hành cho đến nay qua tên gọi Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sử gia Việt Nam từ thời trung cổ đến cận đại, dù có một số ý kiến phủ nhận nhưng nói chung đều công nhận nhà Triệu là quốc thống. Với ghi chép còn lưu lại qua Đại Việt sử ký toàn thư, có lẽ sử gia đời Trần là Lê Văn Hưu, tác giả Đại Việt sử ký (chép từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng), đã có chủ kiến sớm nhất về vấn đề này: “Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “lão phu,” mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy.”, tiếp theo là An Nam chí lược , Đại Việt sử lược cùng thời cũng mặc nhiên coi nhà Triệu là quốc thống của cổ Việt. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhà Trần phong Triệu Đà là “Khai Thiên Thể Đạo Thánh Vũ Thần Triết Hoàng Đế.” Sử gia Ngô Sĩ Liên triều Lê đã đặt Kỷ nhà Triệu trong Ngoại kỷ của Đại Việt sử ký toàn thư và ngợi khen Triệu Đà là bậc vua có đức lớn. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo đã từng viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần…” cũng xác nhận quốc sử nước ta khởi đi từ nhà Triệu. Ý kiến phủ nhận sớm nhất được biết về chính thống của nhà Triệu có lẽ qua lời bình của đại thần nhà Lê ở phần Phụ Lục của Lam Sơn thực lục như sau: “Vũ đế nhà Triệu cùng vua Hán đều tự làm vua nước mình, gồm có đất ở ngoài Ngũ Lĩnh, đóng đô ở Phiên Ngu, thật là vua anh hùng. Thế nhưng chẳng qua cũng là một người Tàu sang cai trị nước ta, chưa được chính thống,” sau đó vào đời Lê Mạt, sử gia Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu án đã phê phán sử gia đời trước đã sai lầm khi tán dương công nghiệp của Triệu Đà, xác nhận nhà Triệu là quốc thống và ông dứt khoát phủ nhận Triệu Đà: “An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to 4 chữ: “Kỷ Triệu Vũ Đế.” Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi phát ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta (…) Nước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ họa chả Triệu Đà thì còn ai nữa?” Tuy thế, sử gia các đời sau đến khi nhà Nguyễn chấm dứt vẫn mặc nhiên coi nhà Triệu là quốc thống. Từ sau năm 1945, các sử gia Việt Nam dường như đã theo khuynh hướng phủ nhận nhà Triệu và nước Nam Việt là quốc thống, coi Triệu Đà là kẻ thù dân tộc. Cho đến nay vấn đề nước Nam Việt của nhà Triệu có phải là chính thống hay không vẫn còn được các học giả tranh luận. 

Người viết xin đưa ra vài nhận định về vấn đề này: Triệu Đà là người đầu tiên trong lịch sử liên quan đến cổ Việt, đã mở đầu cơ nghiệp đế vương ở Lĩnh Nam, tạo dựng một nước mới độc lập mang tên “Nam Việt,” sánh ngang với nhà Hán. Sử sách cho biết, Triệu Đà tự xưng là “Man Di đại trưởng lão phu,” lấy vợ và theo phong tục Bách Việt, thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc. Hai chữ “Nam Việt” đã xác nhận Triệu Đà tự coi nước mới là của tộc Việt phương Nam, khẳng định thoát ly tộc Hán phương Bắc. Tinh thần và ý chí ly khai, độc lập của Triệu Đà rất quan trọng đối với các tộc Bách Việt phương Nam (trong đó có cổ Việt) và trở thành nguồn động lực lớn lao giúp cho người cổ Việt quật khởi, thoát khỏi ách nô lệ nhà Hán. Tiêu biểu là cuộc kháng chiến lừng lẫy, oai hùng do Hai Bà Trưng khởi binh chống lại sự cai trị nhà Hán, chiến thắng và xưng vương cho đến Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán, mở đầu thời kỳ độc lập, tự chủ. Ý thức về một “nhà nước” độc lập, về tộc “Việt,” về “vương quyền”đã gieo mầm trên mảnh đất cổ Việt. Đây chính là một  nhận thức quý giá mà tiền nhân đã gián tiếp để lại cho hậu thế thông qua nhân vật lịch sử Triệu Đà gắn liền với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Cần phải công bằng, vô tư khi đánh giá lịch sử, lưu ý là Triệu Đà chỉ đánh chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương chứ không trực tiếp xâm lược nước Văn Lang của Hùng vương. Cuối cùng Nam Việt bị nhà Hán tiêu diệt và trở thành thuộc địa của nhà Hán. Xét đến cùng thì cả  nước Nam Việt đã bao gồm nước Âu Lạc, trong đó có nước Văn Lang đều có kẻ thù chung là nhà Hán. Như vậy, Triệu Đà, không phải là kẻ thù dân tộc. Ở Việt Nam có hai ngôi đền thờ Triệu Đà hiện còn ở Xuân Quan (Văn Giang, Hưng Yên) và Đồng Xâm (Kiến Xương, Thái Bình) đều nhận được sắc phong ca tụng công đức và kinh phí tu sửa của các đời vua Lê, Nguyễn. Sử gia xưa đã từng công nhận cả An Dương vương lẫn Triệu Đà là chính thống một cách công bằng, tất nhiên phải có lý do chính đáng. Tiền nhân như muốn cho hậu thế biết rằng, nếu câu chuyện Thục Phán đánh Hùng vương chỉ là huyền thoại chứ không phải là sự thật lịch sử thì nước Văn Lang sẽ không bị nội thuộc trong nước Âu Lạc mới của An Dương vương và cũng không có sự kiện lịch sử là Triệu Đà đánh An Dương vương. Nếu thế, đất nước Việt cổ sẽ không can dự vào lịch sử của Trung Quốc, tất nhiên cũng không có những trang sử hào hùng, bất khuất, giành lại độc lập của dân tộc Việt Nam, sẽ không có Hai Bà Trưng, Lí Bí, Ngô Quyền,… Đất nước và dân tộc cổ Việt đã can dự và xuất hiện trong sự thật lịch sử được ghi chép thành văn vì đã gắn liền với tên tuổi của Triệu Đà và An Dương vương. Những bài học lịch sử xương máu đã để lại cho hậu thế: bài học từ Hùng vương tự mãn, an hưởng mà lãng quên củng cố quốc phòng dẫn đến mất nước, bài học từ An Dương vương tự kiêu, say chiến thắng mà mắc kế thông hiếu, nội gián để rồi bại vong, mất nước. Trên hết, bài học lịch sử đắt giá nhất từ Triệu Đà chính là đã khai mào tinh thần đấu tranh giành độc lập, tự chủ cho đất nước, dân tộc, vương quyền thoát ly Trung Quốc. Cho nên lịch sử dân tộc Việt Nam không thể không nhắc đến những nhân vật lịch sử và triều đại của Triệu Đà – Nam Việt, An Dương Vương – Âu Lạc. Danh xưng “Việt” và “Nam Việt” đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm khảm người Việt Nam suốt bao triều đại. 

Lịch sử Việt Nam đã ghi nhận quốc danh, quốc hiệu “Nam Việt”, “Đại Việt”, “Việt Nam” trong đó có một yếu tố quan trọng là VIỆT 越, đây là một từ cốt lõi: VIỆT 越 theo Hán ngữ chỉ các tộc Việt ngày xưa ở các vùng Giang, Chiết, Mân, Việt gọi chung là Bách Việt 百越. Khởi đi từ Triệu Đà tộc Hán đã tôn vinh tộc VIỆT trên đất VIỆT ở Quảng Đông, Quảng Tây, nói chung là vùng Lĩnh Nam thành tên quốc gia độc lập mới là NAM VIỆT (Đất, người Việt ở phương Nam). Nhưng tổ tiên ta đã chấp nhận danh xưng VIỆT 越 không phải là theo đúng nghĩa của gốc Hán, không phải là tộc Bách Việt vùng Lĩnh Nam, không phải là VIỆT của nước Nam Việt của Nam Việt Vũ vương mà là VIỆT 越 theo ý nghĩa mới: tinh thần đấu tranh giành độc lập, tự chủ cho đất nước, dân tộc, vương quyền thoát ly Trung Quốc, người dân đất nước phương Nam có văn hóa, ngôn ngữ, phong tục khác biệt với người dân đất nước phương Bắc. Ý nghĩa mới này khởi nguyên từ Lý Bí tự xưng Nam Việt đế lập ra nước Vạn Xuân ly khai Thiên triều phương Bắc và đến thế kỷ X đã được khẳng định mạnh mẽ bởi vua Đinh Tiên Hoàng sáng lập ra nhà Đinh độc lập, tự do với quốc hiệu Đại Việt, chấm dứt 1000 năm nội thuộc Trung Hoa và lần đầu tiên thiết lập bang giao với nhà Tống. Sau này đến chúa Nguyễn Ánh đã thống nhất đất nước, tự xưng là Nam Việt vương và yêu cầu nhà Thanh chuẩn nhận quốc hiệu Nam Việt và cuối cùng đạt được quốc hiệu Việt Nam. Chính vì vậy các sử gia, văn  nhân xưa vẫn dùng cách gọi “đất Việt”, “nước Việt”; “người Việt”, “dân Việt” thay cho “Nam Việt”, “Đại Việt”, “Việt Nam” và cho đến ngày nay, dù ở khắp năm châu bốn bể, chúng ta vẫn tự hào xưng là người VIỆT, VIỆT NAM. 

Để thay lời kết, xin mượn lời của nhạc sĩ Phạm Duy nổi tiếng với ca khúc VIỆT NAM! VIỆT NAM!

Việt Nam! Việt Nam! nghe từ vào đời
Việt Nam hai câu nói bên vành nôi
Việt Nam nước tôi.
Việt Nam! Việt Nam! tên gọi là người
Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời
Việt Nam đây miền xinh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự do công bình bác ái muôn đời
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường tương lai,
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tình yêu đây là khí giới,
Tình thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người
Việt Nam! Việt Nam!
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn đời.

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/dinh-van-tuan/

You may also like

Verified by MonsterInsights