Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 15 – Hai cuốn sách giáo khoa đáng chú ý

by Tim Bui
Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 15 Hai cuốn sách giáo khoa đáng chú ý

Trần Nhật Vy

Từ thói quen học chữ qua Tam tự kinh, khi chuyển qua đánh vần a,b.c là bước chuyển đầy gian nan của học sinh. Cái khó của người thầy là cách dạy và làm sao để có được sách giáo khoa để dạy để học trò tiếp nhận được chữ quốc ngữ dễ dàng.

Tới nay, chưa thấy nhà nghiên cứu nào “khoe” cuốn sách giáo khoa chữ quốc ngữ thời kỳ sau Đắc Lộ. Tôi e rằng, thời ấy người ta “dạy và học” chữ quốc ngữ theo cách truyền miệng chớ chưa có sách giáo khoa. Và phần lớn những người giỏi chữ quốc ngữ trong suốt hơn hai trăm năm đầu tiên sau khi chữ quốc ngữ ra đời, đều là những người trưởng thành và có trình độ “học sinh ngữ.” Họ có thể được dạy hoặc tự học từ các cuốn tự vị bằng những hình thức trực quan và truyền miệng từ người này sang người khác một cách tiệm tiến. Dù gì đó cũng là một cách bảo tồn chữ quốc ngữ trong thời kỳ chữ này còn bị đa số người Việt coi là “thứ chữ của người Tây,” “thứ chữ của đạo Thiên chúa”….

Đến thời Pháp thuộc khi nhà cầm quyền buộc dân chúng và cả những người làm việc cho họ “phải biết chữ quốc ngữ” thì tình thế đã khác. Mặc dù nhà cầm quyền muốn người Việt và cả những người lệ thuộc, chỉ cần biết đọc và viết chữ quốc ngữ để có thể làm việc và liên lạc với nhà cầm quyền cho thuận tiện nhưng muốn phổ biến rộng thứ chữ này thì không thể thiếu sách giáo khoa. 

Viết sách giáo khoa nói thì dễ nhưng không phải thầy nào cũng đủ kiến thức, đủ khả năng viết. Một trong những ông thầy thuở ban đầu viết sách giáo khoa là ông Trương Vĩnh Ký. Xin được giới thiệu hai cuốn sách giáo khoa dùng để dạy học trò của ông mà lâu nay giới nghiên cứu ít nói tới.

Manuel des écoles primaires…
Cuốn này ghi được in vào năm 1876, tới 15 năm sau công cuộc “quốc ngữ hóa ở Nam Kỳ.” Tôi không rõ đây có phải là in đầu tiên hay không, hoặc có phải là cuốn sách giáo khoa đầu tiên hay không! Song tàng thư của thư viện Pháp chỉ thấy có cuốn này.

Sách dày 370 trang, được ghi là volume 1 gồm ba phần là:

  • Về phép học chữ quốc ngữ
  • Lịch sử Việt Nam [thời ấy kêu là Annam]
  • Lịch sử Trung quốc

Trong lời nói đầu bằng cả hai thứ tiếng Pháp và Việt, ông Vĩnh Ký viết: “Sách này là sách rút tóm lại những đều đại cái người ta phải học, để cho con trẻ mới vô trường, học những đều đại lược mà phá ngu, cho đặng đến sau khi vào trường chung nghe dạy nghe giảng rộng các đều ấy thì mau hiểu hơn là một; hai nữa là để tập coi tập đọc, tập viết tiếng Annam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng.

Khuyên các trò hãy bớt tính ham chơi, mà chuyên việc học hành, chữ nghĩa, văn chương cho được vào đường công danh với người ta cho sớm, trước là cho đặng đẹp mặt nở mày cha mẹ, giúp đời dạy dân; sau là cho mình được công thành danh toại, thơm danh, tốt tiếng ở đời.

Ngay trong phần thứ nhất, ông định nghĩa rõ ràng “chữ quốc ngữ nghĩa là chữ latinh dùng mà viết tiếng Annam ra.” Bảng chữ cái khi đó có 25 chữ, nếu có thêm các chữ f, j, z thì có 28 chữ. Phần phụ âm thì có chữ Đ, nhưng nguyên âm lại thiếu Ă, Â, Ê, Ô, Ơ, Ư!

Tuy nhiên trong phần ghép vần thì lại có ghi.

Phần ghép vần, tập đọc ông viết khả kỹ càng, kể cả cách đọc số. Ông hướng dẫn cách dạy như sau: “Hễ trò nào mới vô thì phóng vở theo đã ra trước này, giao cho nó, cấp cho một trò cũ đã biết rõ mà nhắc biểu chỉ vẻ cho nó.

Phân lớp ra mà dạy cho dễ: Như học trò đã biết viết, biết đọc thì bắt nó viết mò, bắt đọc một đoạn sách cho lẹ, cho xuôi.

Viết mò thì lấy những tuồng, vãn, thơ, phú mà nói cho nó viết. Viết rồi thì thầy coi mà sửa lại cho nó, cho chính câu chính chữ.

Còn mỗi bữa học bắt nó kiếm câu hát, câu đối, lời phương ngôn tục ngữ, diêu ngôn vân vân, mà viết ra một đôi câu chẳng hạn, đem tới nốp cho thầy sửa, góp những cái ấy lại, để một nơi.

Những tập nó học nó viết mỗi bữa học thì thầy sửa rồi đề ngày vô cho nó, cho dễ xét đứa nào trễ nãi, đặng như quan có đòi thì thầy có sẵn mà nộp cho quan.”

Trước phần này, ông viết một loạt văn vần lấy tên là “Khuyến học ca” để nhắc nhở trò cũng như thầy dạy. Sau phần này, ông nhắc các thầy cách dạy toán đơn giản và có một bài văn vần khá dài mang tên Nhựt trình đàng biển nước Annam.

Trong loạt bài khuyến học ca có bài đáng chú ý.

Ăn ngủ làm chi hỡi các trò!
Có công đi học phải toan lo
Chơi bời hoa nguyệt đừng mơ tưởng
Học nghĩa rừng nhu phải gắng đua
Dầu những ruộng nương năm bảy mẫu
Chi bằng kinh sử một hai pho?
Trời xanh đâu phụ người văn học?
Bảng hổ đề tên mới sướng cho
Có vóc có thân phải có siêng
Hễ là đi học học cho chuyên
Sân Trình nấu sử lòng chi mỏi?
Cửa Khổng sôi kinh dạ chẳng phiền
Câu ngọc lời vàng hằng dốc chí
Tin ong sứ điệp mựa tình riêng
Hoàng thiên đâu phụ người ăn học
Có thuở bảng vàng đặng rỡ duyên

Những bài khuyến học kiểu này giờ tìm đâu ra?

Còn bài thơ dài về đàng biển nước ta từ Kinh đô vô tới Cần Giờ, đọc qua thì thấy miêu tả đường biển, song ngẫm kỹ mới hiểu đây là một bài địa lý dễ học, dễ thuộc cung cấp nhiều hiểu biết cho học trò [lẫn người đời sau, nếu chưa từng kinh qua con đường này].

Mở đầu bài thơ:

Trong nhựt trình địa đồ xin kể
Phủ Thừa Thiên lạch Thuận nhà đài

Cho tới cuối bài:

Lăn buồm mà dựa cho yên
Ba non thẳng lái chỉ ngay Cần Giờ.

Bài thơ dài 10 trang in cỡ chữ 9, khoảng 240 câu. Đọc một vài lần ắt là khó thuộc nhưng nếu chia ra làm nhiều đoạn, học nhiều ngày ắt hẳn khó quên được.

Phần sau là phần lịch sử, từ trang 29 trở về sau. Phần này dài 270 trang, viết tóm tắt, gọn gàng nhưng nhấn khá đầy đủ chi tiết về lịch sử nước ta từ thời Hồng Bàng cho đến lúc Gia Long lên ngôi.

Có thể nói được rằng, đây là cuốn lịch sử Việt Nam bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của nước ta, song đã bị rơi vào quên lãng [hoặc bị cố tình quên]. Thiển nghĩ, có thể ông Vĩnh Ký cũng dựa vào các bản sử chữ nho qua các thời đại mà dịch tóm tắt lại. Song đó cũng là chuyện bình thường, bởi các sử gia ngày nay cũng phải dựa vào các tài liệu xưa chớ đâu có ai “sáng tác” được lịch sử? 

Phần cuối là phần lịch sự ngắn gọn về Trung quốc từ đời Bàn Cổ đến nhà Thanh.

Tôi không phải là người chuyên bình sách hoặc nghiên cứu về sách nên chỉ nêu ra đây những dữ kiện để các nhà nghiên cứu sâu về sách giáo khoa có thêm dữ liệu để tìm hiểu, trích dẫn và phê bình.

Song về mặt sách giáo khoa thuở ban đầu của chữ quốc ngữ, đây là cuốn sách rất đáng chú ý. Chú ý bởi nó chưa có tiền lệ, có thể tác giả bắt chước theo loại sách giáo khoa của Pháp, và chưa có cuốn sách giáo khoa chữ quốc ngữ nào tương tự.

Mặt khác, nên nhớ rằng, lúc này, người Pháp chỉ muốn cho người Việt viết và đọc được tiếng Việt cùng hiểu biết chút ít về lịch sử, toán đơn giản kiểu cộng trừ nhân chia, vật lý như vài hiện tượng thiên nhiên và cách đo lường, chứ không muốn học sinh hiểu biết nhiều hơn. Đó là cái gọi là “giáo dục hạn chế” tức chỉ muốn người học biết chút ít về cái mới và quên đi thứ chữ mà cha ông họ đã học và hành. Một người đi học chữ quốc ngữ vừa đủ để có thể viết một lá đơn, đọc được một thông báo bằng tiếng Việt có thể coi là sự thành công của giáo dục. Ngày nay, chúng ta tạm gọi đó là “giáo dục căn bản” chỉ biết chứ chưa hiểu! 

Do vậy, cuốn sách giáo khoa của ông Vĩnh Ký đã tiến xa hơn kỳ vọng của nhà cầm quyền Pháp. Ông không chỉ cung cấp cho học sinh cái biết đơn giản, mà ẩn bên trong là sự hiểu, nền tảng của cái biết, sâu hơn về những gì học sinh phải học. Về địa lý ông giảng cho học sinh hiểu biết về đất nước, ít nhất từ Huế vào tới Cần Giờ. Về lịch sử ông dạy cho học sinh hiểu biết khái quát về lịch sử đất nước của mình. Đây là điều người Pháp không muốn dạy. 

Trong thập niên 1920, báo chí Sài Gòn đã truyền tụng câu chuyện bị “mất dạy” của nhà báo Lê Trung Nghĩa bút danh Việt Nam. Ông là người Tân Định, Sài Gòn, tốt nghiệp trường sư phạm và được bổ về dạy ở trường tổng gần nhà của quê mẹ ở Giá Rai, Bạc Liêu. Sách sử học thời ấy viết “Chúng ta là người Pháp, Tổ tiên chúng ta là người Gô Loa…”. Khi dạy, ông Nghĩa sửa lại là “Chúng ta là người Việt, tổ tiên là người Việt.” Một quan thanh tra học chánh người Pháp biết được việc đó đã tát ông và ông đã phản ứng lại mạnh mẽ. Vì vậy mà ông bị mất dạy! Xin nhớ rằng, ông Nghĩa sống vào đầu thế kỷ 20 mà sách dạy sử cho học trò còn viết như vậy. Nên việc ông Vĩnh Ký viết lịch sử nước nhà vào hậu bán thế kỷ 19 là một “kỳ tích,” một việc làm không phải ai cũng dám hoặc làm được.

Morale en actions
Trong cuốn sách thứ hai, ông Vĩnh Ký còn tiến xa hơn một bước trong việc cung cấp cho học sinh những kiến thức và những ý thức về xã hội đương thời.

Morale en actions phải nói là một cuốn sách giáo khoa lạ lùng trong thời điểm ấy. Trước tiên là sách không đi trúng mục tiêu giáo hóa của nhà cầm quyền Pháp, một mục tiêu chỉ nhằm đào tạo ra một lớp người xa lạ với chữ nho và chỉ biết về nước Pháp. Trong khi đó, Morale en actions lại muốn học sinh phải “trong cuốn sách ta làm đây, có ý giúp dạy cho biết phong hóa mà ăn ở cho phải phép; lại trong sách này, sẽ gặp đặng nhiều gương có danh tiếng những kẻ đã theo phong hóa thật. Sau nữa, cũng gặp những lời ta thêm mà kết dón lại, cho đặng hiểu rõ gương ta đã trưng: lại bằng ai thông thái một ít, thì sẽ biết các truyện trong sách này, đã lựa bởi sách các tấn sĩ có danh tiếng mà làm ra.

Ta có lòng ước ao cho các thầy giáp tập trong các trường, lấy sách này mà cho học trò đọc đi đọc lại nhất là đọc cho thuộc lòng, thì sẽ quen cùng khắn vào trong trí những gương nhơn từ đức hạnh, rộng rãi, khiêm nhượng…. Ắt thật những gương ấy sẽ giục lòng học trò tấn tới trong việc phước, cùng giúp cho biết việc lành phải làm, việc dữ phải lánh.” [trang 7 và 8]

Những lời nhắn nhủ này rõ ràng đi hơi xa với chủ trương “giáo dục hạn chế” của nhà cầm quyền Pháp. Với cuốn sách này, ông Vĩnh Ký muốn học trò học chữ quốc ngữ, ngoài việc biết chữ quốc ngữ, còn phải đi xa hơn, hiểu biết nhiều hơn về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và lối sống của con người trong xã hội qua các truyện tích và những bài thơ khuyên răn trong sách.

Dày 225 trang, ông dành 131 trang viết về các gương danh nhân, tương tự như gương người tốt việc tốt trên báo chí hiện nay.

Số trang còn lại, ông viết những bài học về lẽ sống, phân tích những cái hại của các tệ cờ bạc, hút sách và khuyên răn lớp trẻ phải biết tự bảo vệ bản thân bằng cách xa lánh những thói hư tật xấu, xa lánh các tệ nạn, nhất là tệ cờ bạc, hút sách. Có lẽ thời ấy tệ cờ bạc và hút á phiện đang phát triển dữ dội mà nhà cầm quyền dung dưỡng! 

Tệ cờ bạc được ông nói ngay rằng “bài bạc vốn bày ra mà chơi cho vui một chốc kẻo ở không nhưng vô ích, làm như cái để mà nghỉ việc cho khuây lãng việc một giây lát, thì vốn là một điều vô tội, vô can thật…Ôi! Nó cũng trở nên có tội, có can hê, lại ra xấu nữa, là bởi vì quá độ đi! Có mấy người chơi mà chơi cho vui, cho khuây một giây một lát, khi nào cần kíp lắm phải chơi? Biết là bao nhiêu người lấy cuộc chơi làm cuộc lợi? Bởi vậy cho nên hay sự đánh bài đánh bạc chẳng phải là tốt đâu, vì nó kéo người ta đi xa lắm, phạm nhiều tội nhiều lỗi; làm hư làm hại chẳng kể xiết.”

Rồi ông kể ra rất nhiều tội lỗi là người ham bài bạc đã phạm phải, thậm chí có người bán rẻ danh dự, bán vợ đợ con để có tiền đổ vào sòng! 

Ông kết bằng mấy câu thơ:

Thò lò quay đất nó khuấy anh
Quần áo bán hết một manh chẳng còn
Gió đông non anh còn chịu được
Gió bấc gào nó lọt vào xương
Em có thương anh tìm tiền chuộc áo
Vợ có thương chồng nấu cháo mà nuôi!

Về nha phiến tức á phiện, ông viết “Thường thấy cũng có nhiều người trí huệ thông minh, nhiều tay anh hùng hào kiệt, nhiều kẻ giàu có phú quý là làm cuộc sa đà thì làm sao? Thật thường là những người phong lưu giàu có nhơn vui mà mắc tật ghiền, chớ chẳng ai muốn ghiền làm chi. Mà hởi dĩ lở ra rồi, bỏ đi thì nó sanh ra đau đớn bệnh hoạn khó lòng, nên cũng thả trôi đi vậy cho qua đời. Trót vì tay đã nhúng chàm/dại rồi còn biết khôn làm sao đây.”

Ông miêu tả một người ghiền “…Khi giàu có hay là có ăn chẳng nói gì, mà khi nghèo khó thiếu trước thiếu sau thì lại càng bất nhơn với vợ con hơn nữa. Vợ con đói no không hay không biết, có lo thì lo cho mình có trong mình năm bảy tiền một quan mà mua một hai chỉ thuốc mà hút thì thôi. Mắc những lo hút, không làm gì đặng cho ra tiền ra bạc mà chi độ thê nhi. Có bao nhiêu thì nhét vô nồi vô ống, chun vô lổ hẻm hết. Ra như hình ăn tham với vợ con…Hút nha phiến chẳng phải là tốt mà lại xấu vì nó làm cho hư danh xấu tiếng mình đi.

Sau khi phân tích sự hại của nha phiến, ông chép lại một bài thơ Giải Nha Phiến của Tôn Thọ Tường. Đây là bài văn vần của ông Tường dường như chưa nhà nghiên cứu nào biết tới.

Hết của bay vì ai khiến?
Cực lòng bay bởi ai xui?
Chốn thanh huê ngàn dặm xa xuôi
Đường Cam Lộ muôn trùng diệu vợi
Sanh thuốc độc dưới đời bất lợi
Hại dân lành trong nước cẩn cơ
Hút chẳng thương vợ yếu con thơ
Ghiền không tưởng mẹ già cha cả

Cuối cùng, ông chép lại một bài Văn tế nha phiến để cảnh tỉnh người đọc với mấy câu mở đầu.

Trước bàn đèn ống điếu ngáp mà than rằng
Ba sanh hương hỏa!Cuộc trần hoàn nào mấy mặt tri âm?
Một phút nhà du
Nghĩa giao tất dễ quên lòng quyến cổ?

Bài văn tế này khá dài, kể từ chuyện thuốc phiện chạy từ bên tàu sang ta và cảnh nghiện ngập của dân ghiền như thế nào, song không rõ tác giả.

Nhìn chung, cuốn sách của ông Vĩnh Ký không dạy cho cho học trò học quốc ngữ chỉ biết mặt chữ như chánh sách của nhà cầm quyền Pháp, mà ông nâng cao hơn một chút để học trò hiểu thêm những sự lành dữ, tệ nạn ở đời. Có thể đây là cuốn sách dành cho những học sinh lớp trên, cỡ trường Tổng đến trường tỉnh chớ học trò lớp dưới khó mà biết được.

Với hai cuốn sách giáo khoa này được viết trong điều kiện chưa có tiền lệ, ngày nay chúng ta thêm kính phục ông Vĩnh Ký và những người thầy giáo dạy chữ quốc ngữ thuở ban đầu. Chính nhờ những nỗ lực của họ mà ngày nay chúng ta có được một gia tài to lớn để sánh vai ngang hàng với nhiều bộ chữ trên thế giới.

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/

You may also like

Verified by MonsterInsights