TRẦN NHẬT VY
Đã bao giờ người Việt tự hỏi “Vì sao người Việt ngày nay được viết tiếng Việt?” Câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng khó trả lời!
Thuở xưa, thời còn lệ thuộc Hán, người Việt do không có văn tự riêng nên phải học và viết tiếng Hán, thường gọi là chữ Nho. Tiền nhân chúng ta đã cố gắng “Việt hóa” tiếng Hán bằng cách tạo ra chữ Nôm [tức Nam] từ mẫu tự Hán mà viết tiếng Việt. Đó cũng là một cách thoát Hán. Thế nhưng, chữ Hán khó học mà chữ Nôm lại càng khó hơn gấp nhiều lần. Vì vậy, chữ Nôm không phổ biến rộng trong đời sống bình thường và lần lần bị mai một, thất truyền. Theo một số nhà nghiên cứu, hiện chỉ có khoảng mười người biết chữ Nôm trên toàn thế giới, một con số rất đáng suy nghĩ! Ở Hoa Kỳ dường như chỉ có giáo sư Nguyễn Văn Sâm là biết chữ Nôm nhưng ông cũng ở tuổi U.90, song chưa có truyền nhân.
Cũng vì vậy, suốt gần 2000 năm, giới quan lại, trí thức người Việt vẫn coi chữ Hán là “quốc văn” dù “nói một đằng, viết một nẻo!”
Sau khi người Pháp chiếm Nam Kỳ, chữ quốc ngữ được các giáo sĩ Thiên Chúa sáng tạo từ thế kỷ 17, được phổ biến. Kỳ thi Hương chữ Nho cuối cùng ở Nam Kỳ diễn ra vào năm 1864 tại ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ gồm ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Trong khi đó, từ năm 1862 người Pháp đã bắt đầu mở trường học dạy chữ quốc ngữ, thứ chữ mà ông Trương Vĩnh Ký định nghĩa là “chữ quốc ngữ là chữ ghi âm tiếng nói của người Việt bằng mẫu tự Latin,” thứ chữ ngày nay người Việt gọi “tiếng Việt.” Mãi đến năm 1887, sau khi thành lập Liên bang Đông Dương; gồm Nam kỳ thuộc địa; Trung và Bắc kỳ bảo hộ; Lào, Cam Bốt; các trường dạy chữ quốc ngữ mới được lần lượt mở ở Trung và Bắc kỳ phần lớn là bậc tiểu học.
Mãi đến năm 1906, theo giáo sư Nguyễn Đức Liên, sau khi toàn quyền Paul Bert ký nghị định thành lập Nha học chánh (Direction de l’Enseigment) và Hội Đồng Cải Thiện Giáo Dục Bản Xứ (Conseil de Perfectionement de l’Enseignment Indigène) thì chương trình giáo dục cả Việt Nam mới thực sự hình thành, và được gọi là chương trình Pháp-Việt, tức chữ quốc ngữ chỉ là “sinh ngữ,” còn học sinh và giáo viên phải nói tiếng Pháp ở các môn học khác.
[tongphuochiep.com https://www.tongphuochiep.com/index.php/bao-chi/l-ch-s/31256-giao-d-c-vi-t-nam-du-i-th-i-phap-thu-c-1862-1945-gs-ph-m-d-c-lien]
Trong suốt hai thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, chữ Nho vẫn chiếm thế thượng phong ở Trung và Bắc kỳ. Song trước xu thế không thể đảo ngược được của chữ quốc ngữ khi nhà cầm quyền bảo hộ quyết liệt muốn loại chữ Nho ra khỏi đời sống của dân Việt bằng những ưu đãi cho người học chữ quốc ngữ thì chữ Nho lụi tàn dần. Thời kỳ này, ai muốn làm quan nhỏ lớn gì cũng phải “biết chữ quốc ngữ.” Chính các vua triều Nguyễn đương thời cũng phải học tiếng Pháp và chữ quốc ngữ, ít nhất chúng ta biết hai “ông thầy” của vua Nguyễn là Trương Vĩnh Ký và Diệp Văn Cương. Một trong những nhân chứng đương thời là nhà thơ Tú Xương cũng phải lên tiếng than:
Nào có ra gì cái chữ Nho,
Ông nghè, ông cống cũng nằm co
Thôi thì đi học làm thầy Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!
[thica.net https://www.thica.net/tac-gia/tu-xuong/page/2/]
Tất nhiên, chữ quốc ngữ không dễ dàng “chen chân” để đứng vững ở vùng đất mà chữ Nho đã tồn tại hàng ngàn năm. Ngoài những trí thức biết xu thời mẫn thế như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Tiến Lãng, Trần Văn Thông [1] thì đại đa số dân chúng và các nhà nho đều quay lưng với chữ quốc ngữ, dù thứ chữ này được hoài thai và phát triển ngầm từ đầu thế kỷ 17 ở Trung và Bắc kỳ! Với họ, dù gì đi nữa, thì chữ quốc ngữ vẫn là thứ chữ ngoại quốc, thứ chữ của đạo Thiên Chúa, không phải chữ của cha ông!
Để làm thay đổi những quan niệm ngàn đời ấy, tổ chức Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời vào đầu thế kỷ 20 nhằm kêu gọi dân chúng thấy sự tân tiến và ích lợi của chữ quốc ngữ, ngoài việc kích thích tinh thần ái quốc. Nếu học chữ nho vài ba năm mới viết được một câu đơn giản thì chữ quốc ngữ chỉ cần học vài ba tháng!
Từ năm 1906, trước áp lực của Pháp, triều Nguyễn cũng thay đổi các quy định về việc học. Trước đó, theo điều lệ có từ thời Minh Mạng, việc học của Trung và Bắc kỳ quy định “trường học tỉnh, do Đốc học chiểu lệ trường mà giảng dạy đã đành, ngoài ra, Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát cũng nên mỗi tháng ra đầu văn một ký cho học trò tập, ai ưu hạng thì thưởng giấy bút, để cho học trò khuyên gắng với nhau. Năm Thành Thái thứ 2 lệ định các tỉnh phải xem xét sĩ số ở trường huấn giáo phủ huyện và các trường tư ở nơi thôn xã xem được bao nhiêu học trò, và kê trình đầy đủ.” [Tổ chức quản lý giáo dục ở Việt Nam trong bộ máy chính quyền thời Pháp thuộc trước năm 1945, Trần Thị Phương Hoa, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 10 – 2012]. Từ năm 1906 trở về sau, tất cả việc bổ nhiệm quan lại, bao gồm cả quan lo việc học đều thuộc quyền quyết định của các thủ hiến người Pháp. Đại Nam điển lệ toát yếu ghi “ngày tháng 11 năm Thành Thái thứ 18 (tức tháng chạp năm 1906), quan Thống sứ nghị định: việc thăng trật của quan lại An Nam, mỗi cuối năm lập một sổ biên hết quan chức (tổng đốc, tuần phủ, án sát, đốc học, tỉnh thương tá, quản đạo, tri phủ, tri huyện, tri châu, thông phán, kinh lịch, giáo, huấn, hậu bổ, chánh phó đề đốc, chánh phó lãnh binh…) ai là người đáng thăng thì lên sổ tư trình về quan Thống sứ Bắc Kỳ thẩm duyệt. Quan lại nào năm ấy đích thực có công lao xuất sắc thì không có tên trong sổ thăng bổ cũng được thăng bổ quan chức. Còn như các tên đã liệt vào sổ thăng bổ rồi, nếu xét chưa đáng thì quan Thống sứ có thể bỏ đi. Quan Toàn quyền đã chiểu y nghị định Thống sứ Bắc Kỳ.” Như vậy, có thể thấy sau năm 1906, việc thăng thưởng, bổ nhiệm quan lại ở Bắc Kỳ hoàn toàn do chính quyền Pháp quyết định.
Ở Trung Kỳ, bộ Học được lập ra năm 1907 song chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Năm 1906, triều Nguyễn ban hành Bản quy chế giáo dục 1906 áp dụng cho việc học ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, lần đầu tiên quy định cụ thể các bậc học và chương trình học cho từng cấp. Tháng 11 cùng năm, thống sứ Bắc Kỳ đã ban hành một nghị định với 67 điều có chỉnh sửa một số khoản so với Bản quy chế giáo dục 1906. Sau đó, triều Nguyễn không đưa thêm quyết sách cụ thể nào, mọi việc liên quan đến học hành thi cử về thực chất đều do chính quyền Pháp ban hành và điều phối, đặc biệt trong việc đổi mới hệ thống quản lý giáo dục.”
Trước đó, triều Nguyễn chỉ nắm việc thi cử, còn việc dạy như thế nào thì tùy xứ, tùy nơi do dân chúng quyết định, chánh quyền không quản. Khi nhà cầm quyền Pháp bảo hộ thay đổi chánh sách giáo dục, thì nhà cầm quyền nắm toàn bộ các hoạt động hành chánh thì việc học hành và thi cử cũng do họ quyết định. Tất cả giáo viên, học sinh, môn học, chương trình học trong các trường công hay tư đều do Giám đốc sở học chính phê duyệt. Ở giai đoạn này, các chức vụ quan học chính truyền thống vẫn được duy trì: Huấn đạo lo việc học ở Huyện, Giáo thụ lo việc học ở trường Phủ (các trường Tiểu học), đồng thời giám sát việc học của các trường ấu học do thầy đồ đảm nhiệm. Đốc học lo việc học ở các trường Tỉnh, đồng thời kiểm tra việc học tập giảng dạy ở làng xã, huyện, phủ. Tuy nhiên, công việc quan trọng nhất của Huấn đạo, Giáo thụ và Đốc học vẫn là đôn đốc việc thi cử Nho giáo (kéo dài đến năm 1915 ở Bắc Kỳ). Các quan học chính người Việt đều hoạt động dưới sự kiểm soát của Sở Học chính đứng đầu là người Pháp.
Chữ quốc ngữ được quy định đưa vào kỳ thi hương năm 1906 nhưng cho đến năm 1909, khi Thống sứ Bắc kỳ ký ngày 30/03/1908 mới quy định cụ thể chương trình thi Hương, theo đó kỳ thi Hương năm 1909 là kỳ thi cải cách đầu tiên, nghĩa là thi hương buộc phải biết chữ quốc ngữ! Kỳ thi này, ban giám thị quy định gồm ba phần:
- Trường nhất: năm đạo văn sách
- Trường nhì: thi, phú
- Trường ba: hai bài luận chữ quốc ngữ
Việc chấm thi cũng thay đổi. Trước đó, chỉ có các điểm ưu [hạng nhất], bình [hạng nhì], thứ [đủ để đậu] và liệt [rớt]. Đến kỳ thi năm 1909, thì dùng thang điểm 20 và thí sinh có 10 điểm trở lên là đậu.
Cho tới năm 1918, ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, các trường Nho học công lập được tổ chức lại theo ba bậc (Đồng ấu, Tiểu học, Trung học) tồn tại song song cùng các trường Pháp – Việt với số lượng chiếm đa số trong hệ thống giáo dục. Năm 1908, tổng số trường Nho học ở cả hai xứ này là 15 ngàn trong số khoảng 200 ngàn học sinh. Các trường Pháp – Việt được tổ chức theo hai cấp học là Tiểu học (có các lớp Dự bị và Sơ học) và Trung học (khi đó gọi là complementaire). Năm 1913, tổng số trường Pháp – Việt ở Bắc Kỳ là 51 với hơn 6000 học sinh (chỉ có một trường Trung học là Trung học Bảo hộ thành lập năm 1908, sát nhập từ ba trường Thông ngôn, Jules Ferry Nam Định và Sư phạm ở Hà Nội). Ở Trung Kỳ năm 1913 có 23 trường Pháp – Việt với chưa đến 1000 học sinh (chỉ có một trường Trung học duy nhất là Quốc học Huế, thành lập năm 1898). Ở Nam Kỳ, các trường dạy chữ Nho hoàn toàn bị loại khỏi hệ thống giáo dục công, chỉ một số làng lẻ tẻ vẫn duy trì các lớp học chữ Nho với lối tổ chức mang tính tự phát. Năm 1913 số trường Pháp – Việt ở Nam Kỳ là 737 trường với hơn 43 nghìn học sinh, chiếm hơn 90% tổng số trường Pháp – Việt ở Việt Nam.
Ngày 21/12/1917, Toàn quyền Albert Sarraut ký Nghị định ban hành Học chính Tổng quy (Règlement général de l’Instruction publique en Indochine), là bộ luật giáo dục chính thức quy định về cơ quan quản lý giáo dục, hệ thống trường lớp, cơ cấu tổ chức các loại trường, chương trình, quy định về giáo viên, cách thức đánh giá, thi cử, thanh tra nhà trường. Nam Kỳ và Bắc Kỳ đã sớm áp dụng các quy định của Học chính Tổng quy. Từ năm 1918, tất cả các trường Nho công lập ở Bắc Kỳ đều chuyển thành trường Pháp – Việt. Ở Trung Kỳ, sau kỳ thi Đình năm 1919, Bộ Học và Hội đồng hoàn thiện giáo dục bản xứ bị giải tán, trường Hậu bổ đóng cửa, giáo dục ở xứ này chuyển sang hệ thống quản lý và hoạt động thống nhất trong cả nước.
Bộ Tổng quy có có 558 điều, chia làm bảy “thiên” (livers), mỗi thiên chia ra thành “mục” (titres). Mỗi mục chia ra thành “tiết” (chapitres). Các quy định về cơ quan quản lý giáo dục được mô tả là “Tổng nha Học chính Đông Dương” (Inspection général de l’Instruction publique), thay mặt Toàn quyền chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến học chính toàn Đông Dương. Tổng Giám đốc có thể được coi như là “Bộ trưởng Giáo dục.” Dưới quyền Tổng Giám đốc là các Phó Giám đốc (inspecteurs – adjointa), có nhiệm vụ chủ yếu là thanh tra giám sát, thay Tổng Giám đốc đi thanh tra xem xét các trường học. Các thanh tra gồm có Thanh tra Phổ thông (Inspecteurs de l’Enseignement général), Thanh tra trường Thực nghiệp (Inspecteurs de l’Enseignement professionnel) và Thanh tra Đồ thị học (Inspecteurs de l’Enseignement du dessin). Thanh tra Phổ thông thay Tổng giám đốc đi thanh tra các trường đệ nhất và đệ nhị cấp. Thanh tra Thực nghiệp và Đồ thị học chuyên xem xét các trường dạy nghề và dạy vẽ.
Theo Học chính Tổng quy, nền giáo dục ở toàn Đông Dương có ba cấp học: hai cấp phổ thông là Tiểu học và Trung học (cấp Một và cấp Hai), cấp Ba là Cao đẳng, Đại học. Ở mỗi cấp lại có một chức giám đốc. Các trường cấp Một (Tiểu học) ở mỗi xứ chịu sự giám sát của Giám đốc Tiểu học (Directeur de l’Enseignement primaire) riêng từng xứ. Giám đốc thuộc quyền quản lý của Thủ hiến mỗi xứ. Dưới chức giám đốc đặt các chức thanh tra, gồm các giáo viên Pháp và Việt, người nào có bằng cấp cao và kinh nghiệm được cử đi thanh tra giám sát các trường đệ nhất cấp. Ở cấp Hai có các trường Trung học (Pháp và Pháp – Việt). Hiệu trưởng các trường Trung học (khi đó còn gọi là quan đốc) trực thuộc Thủ hiến các xứ về mặt hành chính, về mặt chuyên môn chịu sự quản lý của Giám đốc Học chính, việc bổ nhiệm do Toàn quyền Đông Dương quyết định.
Trừ các trường “cao đẳng” (Écoles supérieures) và trường “Trung học Pháp” ở Hà Nội (Lycée d’Hanoi) trực thuộc Toàn quyền Đông Dương, các trường trung học công lập khác (phổ thông cũng như thực nghiệp) trực thuộc quan Thủ hiến (ở Bắc Kỳ trực thuộc Thống sứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ thuộc Khâm sứ và Nam Kỳ thuộc Thống đốc).
Trước năm 1918, việc học của các trường bản xứ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ thuộc sự giám sát của các quan học chính: đốc học (tỉnh), giáo thụ (phủ), huấn đạo (huyện). Sau khi Học chính Tổng quy được ban hành, tất cả các chức quan học chính cũ bị bãi bỏ, việc học ở các xứ phải có sự giám sát của các thanh tra người Pháp. Ở các tỉnh lỵ và huyện lỵ, các trường Tiểu học, trong đó có Tiểu học toàn cấp nằm dưới sự kiểm soát của một Đốc học người Pháp. Trong trường hợp thiếu thanh tra Pháp, người Việt cũng có thể đảm nhận vị trí này. Năm 1920 đã bổ nhiệm ông Trần Trọng Kim làm thanh tra Tiểu học người Việt cho các trường tiểu học ở Bắc Kỳ. Năm 1921 riêng Bắc Kỳ có năm thanh tra Pháp và bốn thanh tra Việt. Từ năm 1926 đến 1930, 22 huyện ở Bắc Kỳ được bố trí thanh tra, trong đó 19 thanh tra Pháp và 3 thanh tra Việt. Thanh tra có trách nhiệm tới thăm các trường Tiểu học và giám sát hoạt động dạy và học, kiểm tra chương trình, tài liệu học tập cũng như đạo đức giáo viên và lập báo cáo trình lên Công sứ của tỉnh.
Các trường cao đẳng mở chung cho cả học sinh người Pháp và người việt, tập hợp lại thành “Đại học Đông Dương” (Université Indochinoise). Bộ Học chính tổng quy đề ra việc thành lập Nha Cao đẳng (Direction de l’Enseignement supérieur) để quản lý chung các trường cao đẳng đang trong quá trình thành lập, chịu trách nhiệm về việc sáng lập, tổ chức, đặt thể lệ, định chương trình cho các trường cao đẳng. Mỗi trường Cao đẳng có một Hội đồng (Conseil de l’Ecole) do Giám đốc trường làm chủ tịch, các giáo viên làm hội viên thảo luận về phương pháp dạy học, đánh giá sinh viên, lựa chọn sách giáo khoa. Giám đốc trường mỗi năm lập một sổ dự toán chi phí gửi lên Giám đốc Nha Cao đẳng.
Học chính Tổng quy đề ra việc thành lập “Hội đồng cố vấn Học chính” (Conseil consultatif de l’Instruction publique) để bàn bạc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc học ở Đông Dương. Đích thân Toàn quyền làm Chủ tịch Hội đồng, hai phó chủ tịch là Tổng giám đốc Học chính và Giám đốc Đại học, hội viên gồm năm đại diện chính quyền của năm xứ do thủ hiến các xứ đó chỉ định, ngoài ra còn có Giám đốc Viễn đông bác cổ, thanh tra giáo dục phổ thông, thanh tra trường dạy nghề và đồ họa, Hiệu trưởng trường Trung học Pháp ở Hà Nội, đại diện từ trường đại học, các nghị viên người Pháp và người Việt. Hàng năm thành viên Hội đồng họp ít nhất một lần nghe Tổng thanh tra báo cáo về các vấn đề nổi bật của giáo dục trong năm, nghe báo cáo của đại diện chính quyền các xứ về tình hình ngân sách và chi tiêu cho giáo dục. Hội đồng thảo luận và đề xuất ý kiến liên phủ Toàn quyền. [theo Trần Thị Phương Hoa].
Như vậy, sau thời gian gần hai thập niên để hoàn thiện cơ chế, giáo dục Pháp-Việt với chữ quốc ngữ và chữ Pháp được ưu tiên thì chữ Nho đã thực sự đi vào dĩ vãng. Cuối năm 1918, ngày 28-12, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ khoa cử nho học, và năm 1919 kỳ thi Hội cuối cùng diễn ra với sự ít ỏi các sĩ tử nho học. Từ đó, triều Nguyễn không dùng các cuộc thi nho để tuyển chọn quan lại nữa.
(Còn tiếp)
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/
Chú thích
[1] Ông Trần Văn Thông, Tổng đốc Nam Định, là ông nội của bà Trần Lệ Xuân – Đệ nhất phu nhân của Việt Nam Cộng hòa, vợ của Ngô Đình Nhu. Ông sinh năm 1875 tại Biên Hoà (nay thuộc tỉnh Đồng Nai) làm quan nhiều năm ở miền Bắc (Nam Định). Thuở nhỏ từng theo Tây học, năm 1894 đỗ “Tú tài Tây” (Bachelier de l’enseignement moderne) ban sư phạm, khoa học, chuyên về ngôn ngữ cổ điển Việt Nam. Từ năm 1907 – 1911, ông làm Giám đốc Trường Hậu bổ ở Hà Nội, rồi giữ chức Tổng đốc Nam Định gần 20 năm. Từng là hội viên Hội đồng Tư vấn Đông Dương, Hội đồng Bảo hộ Bắc Kì, Đông các Đại học sĩ Nam Triều…
Ông là thân sinh Tiến sĩ luật Trần Văn Chương, luật sư Tòa Thượng thẩm Hà Nội, cựu bộ trưởng Ngoại giao chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, và luật sư Trần Văn Đỗ cựu ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn (1965-1972).
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), ông là một trong tám nhân vật có uy tín trên chính trường, được vua Bảo Đại mời vào Huế tham khảo ý kiến thành lập chính phủ gồm bác sĩ Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Hoàng Xuân Hãn, luật sư Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Cựu tổng đốc Hoàng Trọng Phu và ông.
Sau đó, ngày 17-4-1945, nội các Trần Trọng Kim được hình thành, con trai ông là Trần Văn Chương giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao.
Sau năm 1954, ông về sống ở Sài Gòn và mất trong năm 1955, thọ 80 tuổi. (nguồn Bách NT)
Điều ít người biết, ông là em rể của ông Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông đầu tiên của Việt Nam, một nhân vật nổi tiếng ở Sài Gòn trong thập niên 1920-1940. Vợ ông là bà Bùi Thị Lan, em út của ông Bùi Quang Chiêu và là bà nội của bà Trần Lệ Xuân.





