Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 18 – Hệ thống giáo dục Pháp-Việt

by Tim Bui
Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 18 Hệ thống giáo dục Pháp-Việt

TRẦN NHẬT VY

Nhằm phổ biến chữ quốc ngữ để thay thế chữ nho ngõ hầu cắt đứt các liên hệ giữa dân chúng Nam kỳ và nhà Nguyễn, ngay sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, năm 1862 Pháp đã mở trường dạy chữ quốc ngữ là trường Bổn quốc nay là cơ sở của trường Lê Quý Đôn ở Sài Gòn. Trước đó, năm 1860, giáo hội Thiên chúa đã thành lập một trường mang tên d’Adran dạy tiếng Pháp và chữ quốc ngữ ở Sài Gòn, nay là cơ sở của trường Trưng Vương và Võ Trường Toản. Các trường này ban đầu chỉ dạy cho binh lính Pháp tiếng Việt để làm thông ngôn và cho con nít Việt nhằm chuẩn bị cho lực lượng dự bị tương lai.

Những năm sau đó, một hệ thống trường tỉnh, trường làng, tổng được hình thành và trường cấp vùng là Le Myre de Vilers ở Mỹ Tho được thành lập năm 1879.

Sau khi hình thành Liên bang Đông Dương, Pháp bắt đầu mở rộng việc dạy chữ quốc ngữ trong toàn cõi Việt Nam. Ở miền Trung, trường dạy chữ quốc ngữ đầu tiên là trường Quốc Học Huế (1896), ở miền Bắc là trường trung học Bảo Hộ (Collège du Protectorat) tức trường Bưởi Hà Nội (1908).  Các trường này khi mới mở chỉ có bậc Tiểu Học, mấy chục năm sau mới dạy đến các bậc cao hơn.  Riêng hai trường Quốc Học Huế và trường Bưởi sau này có đến bậc Tú Tài. Từ 1910 đến 1930 là thời kỳ hình thành nền giáo dục chữ quốc ngữ có hệ thống. Từ 1930 đến 1945 là thời kỳ tổ chức hệ thống giáo dục chữ quốc ngữ gọi là chương trình Pháp-Việt cho người Việt coi như đã hoàn chỉnh. Gọi là Pháp-Việt vì việc dạy học bằng cả hai thứ tiếng Pháp và Việt. Trong các kỳ thi, học sinh cũng phải làm bài thi bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt.

Song song với hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt, Pháp thiết lập hai trường hoàn toàn như ở Pháp dành riêng cho con cái người Pháp ở Việt Nam và con cái những người Việt thân Pháp.  Đó là các trường Albert Sarraut ở Hà Nội (1918) và trường Yersin ở Đà Lạt (1935).  Cả hai trường này lúc đầu cũng được hình thành từ bậc Tiểu Học trước rồi sau mới có đến bậc Tú Tài. Trước đó, trường Bổn Quốc ở Sài Gòn sau nhiều lần đổi tên trở thành trường Chasseloup Laubat cũng chỉ dành cho người Pháp và con cái những người thân Pháp học.

Tới khi hình thành đầy đủ, hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt có ba bậc với chương trình là 13 năm gồm:

Tiểu Học

  • Lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin)Lớp Dự Bị (Cours Préparatoire)
  •  Lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire)
  •  Lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen 1ère année)
  • Lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2è année) (09)
  •  Lớp Nhất (Cours Supérieur)

Bậc Tiểu học kéo dài sáu năm. Ba lớp đầu là sơ học. Học xong lớp Sơ Đẳng học sinh thi lấy bằng Sơ Học Yếu Lược (Primaire Élémentaire). Những học sinh được tuyển thẳng lên lớp Nhì năm thứ nhất không bắt buộc phải thi Sơ Học Yếu Lược.  Học hết lớp Nhất học sinh được thi bằng Tiểu Học Yếu Lược hay Sơ Đẳng Tiểu Học (Certificat d’Études Primaire Franco-Indigène, CEPFI), phải có bằng này mới được thi lên lớp trên thuộc bậc Cao Đẳng tiểu Học.

Cần chú ý, chương trình tiểu học của Pháp, bắt đầu từ lớp có “số lớn” rồi lên nhỏ dần. Thời VNCH cũng tính theo cách này, tức mới vô học là lớp 5 rồi học hết tiểu học là lớp Nhứt. 

Cao Đẳng Tiểu Học
Các trường Cao Đẳng Tiểu Học được gọi là Collège, học bốn năm. Khi học xong bốn năm được thi lấy bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) còn gọi là bằng Thành Chung.  Phải có bằng Thành Chung mới được dự thi lên bậc Trung Học tức bậc Tú Tài.

Thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cũng áp dụng chương trình tương tự. Học sinh sau khi hoàn thành bậc tiểu học thì lên lớp Đệ Thất, năm đầu tiên của trung học đệ nhất cấp. Muốn vô trường công thì phải “thi,” còn học trường tư thì khỏi thi. Sau khi học bốn năm ở các lớp Đệ Thất, Đệ Lục, Đệ Ngũ, Đệ Tứ thì thi lấy bằng thành chung, có bằng thành chung mới lên trung học đệ nhị cấp. Thập niên 1970 thì chính quyền bỏ cuộc thi này. Đậu được bằng thành chung (tức lớp 9 ngày nay) thì mới được lên lớp Đệ Tam.

Trung Học (Enseignement Secondaire)
Bậc Trung Học còn được gọi là bậc Tú Tài Pháp-Việt, học trình gồm ba năm.  Học xong hai năm đầu được thi lấy bằng Tú Tài phần thứ nhất (Baccalauréat, 1ère partie).  Đậu bằng này được học tiếp năm thứ ba không phải thi tuyển.  Năm thứ ba được chia làm hai ban: ban Triết và ban Toán.  Hai ban có những môn học hoàn toàn giống nhau như Sử, Địa, Ngoại Ngữ.  Có những môn giống nhau nhưng số giờ học khác nhau như Đại Số, Thiên Văn.  Có những môn chỉ học ở ban này mà ban kia không có như ban Triết học Tâm Lý Học, Siêu Hình Học, ban Toán học Hình Học, Cơ Học, Số Học.

Từ niên học 1937-1938 trên toàn cõi Việt Nam đều áp dụng chương trình Pháp-Việt đủ ba ban: Toán, Khoa Học, Triết.  Ngoài ban mình học, học sinh được phép thi tốt nghiệp các ban khác nhưng phải tự học thêm những môn mà ở ban mình theo học không có.  Học sinh cũng được phép thi bằng Tú Tài Pháp. Học xong năm thứ ba trung học được thi lấy bằng Tú Tài Toàn Phần thường gọi là Tú tài II (Certificat de Fin d’Études Secondaire Franco-Indigènes).  Học sinh tốt nghiệp hai hoặc ba ban hoặc thêm bằng Tú Tài Pháp được ưu tiên khi thi vào các trường Đại Học có thi tuyển như các trường Grandes Écoles ở Pháp hoặc các trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp ở Hà Nội lúc đó.

Từ niên học 1926-1927 Pháp thiết lập thêm chế độ Tú Tài Bản Xứ (Baccalauréat Local) học thêm các môn về văn chương Việt Nam, lịch sử, triết học Đông Phương và Cận Đông (Ấn Độ, Trung Hoa, Do Thái). Chương trình rất nặng, bị chỉ trích và ta thán rất nhiều nên đã bị hủy bỏ từ niên học 1937-1938.

Một đặc điểm của nền giáo dục phổ thông Pháp-Việt là hễ có bằng Tú Tài Toàn Phần thì đương nhiên được vào học các trường Đại Học (Université), nhưng muốn vào các trường Cao Đẳng thì phải qua một kỳ thi tuyển rất khó. Trước 1945, Việt Nam chỉ có một trường Đại Học và vài trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp ở Hà Nội như Sư Phạm, Canh Nông, Thú Y, Công Chánh và Mỹ Thuật.

Một đặc điểm khác nữa là chương trình học do nhà nước quy định có tính cách bắt buộc trong việc giảng dạy, nhưng sách giáo khoa lại hoàn toàn do các nhà xuất bản mời người biên soạn và các sách này chỉ được dùng để tham khảo mà thôi.  Tất nhiên những sách giáo khoa do các nhà giáo có kinh nghiệm và uy tín được sử dụng nhiều hơn.  Riêng ở bậc Tiểu Học sách giáo khoa do Nha Học Chính Đông Pháp chủ trì việc biên soạn và xuất bản, bán rẻ cho học sinh. Từ bậc Cao Đẳng Tiểu Học trở lên thì dùng sách giáo khoa xuất bản ở Pháp (trừ vài quyển về Lịch Sử Việt Nam, Địa Lý Đông Dương, Văn Học Việt Nam do các giáo chức người Pháp hay người Việt soạn và xuất bản ở Hà Nội.

Sau năm 1954, Việt Nam bãi bỏ chương trình Pháp Việt và dạy học hoàn toàn bằng tiếng Việt. Song về nội dung chương trình học và số năm học ở hai miền Nam Bắc khác nhau kể từ vĩ tuyến 17. 

Ở miền Nam từ năm 1955, từ vĩ tuyến 17 trở vào, chính quyền VNCH vẫn giữ nguyên chương trình Pháp-Việt, song có một số thay đổi.  

Ở bậc tiểu học, từ lớp Năm đến lớp Nhất bỏ lớp sơ học, có các môn Việt vănĐức dụcCông dânQuốc sửĐịa lýToánVẽKhoa học, và Thể dục. Ngoài ra nữ học sinh thêm môn gia chánh. Học sinh đi học một tuần năm ngày. Mỗi ngày học bốn tiếng đồng hồ. Năm học thì chia thành hai kỳ “lục cá nguyệt.” Học sinh tiểu học sau khi hoàn thành lớp Nhứt thì lên trung học đệ nhất cấp.

Trung học Đệ nhất cấp: từ Đệ thất đến Đệ tứ (nay là lớp 6 đến lớp 9), lên trung học Đệ nhất cấp tiếp tục học các môn Việt văn, Công dân, Quốc sử, Địa lý, Thể dục và Toán. Ngoài ra hai môn Vẽ và Đức dục thì thay bằng môn Âm nhạc và Ngoại ngữ (sinh ngữ) (tiếng Anh hoặc tiếng Pháp). Khoa học thì định rõ là Vạn vật và Hóa học.  

Tổng cộng học 28-30 giờ một tuần. Xong lớp 9 (đệ tứ) thì học sinh có thể thi bằng trung học đệ nhất cấp. Tỷ lệ đậu khoảng 18,3 đến 43,81% trong thời kỳ 10 năm 1954-1964. Sang thập niên 1970 thì bỏ hẳn kỳ thi này.

Thời kỳ chiến tranh, muốn làm Hạ sĩ quan phải có bằng trung học đệ nhất cấp nên có câu “Rớt tú tài anh đi trung sĩ.”

Trung học Đệ nhị cấp: từ Đệ Tam đến đệ nhứt (tức lớp 10-12 hiện nay), đệ nhị cấp thì học sinh phải chọn trong bốn ban: Vạn vật (Ban A), Toán (Ban B), Văn chương (Ban C), hoặc Cổ ngữ (Ban D). Học sinh còn phải học thêm ngoại ngữ hai (sinh ngữ) thứ nhì, gọi là sinh ngữ phụ; nếu đệ nhất cấp học tiếng Anh thì nay phải học thêm tiếng Pháp hoặc ngược lại. Riêng ban cổ ngữ thì có thể chọn chữ Hán hoặc La Tinh là ngoại ngữ (sinh ngữ) thứ nhì. Năm lớp 12 (đệ nhất) thì bất kể ban nào đều phải thêm môn Triết.

Học xong lớp Đệ Nhị thì học sinh được thi Tú tài I, tức tú tài bán phần. Xong lớp Đệ Nhứt thì thi Tú tài II, tức tú tài toàn phần. Kể từ năm 1973 trở đi chỉ thi một kỳ (bỏ kỳ thi Tú tài I, bán phần tú tài) gọi là Tú tài phổ thông bằng hình thức thi trắc nghiệm và được chấm thi bằng máy tính điện tử IBM. Kỳ thi này được tổ chức là một kỳ thi toàn quốc.

Trước năm 1973, có bằng tú tài 1 khi phải đi lính thì trở thành sĩ quan huấn luyện ở Thủ Đức. Nhưng muốn trở thành sĩ quan chuyên nghiệp phải có bằng tú tài II và được huấn luyện ở Đà Lạt thường được gọi là sĩ quan Đà Lạt. Sau năm 1973, chỉ cần có bằng tú tài thì có thể thi tuyển vào trường sĩ quan Đà Lạt.

Đặc điểm của giáo dục miền Nam là học sinh buộc phải tham gia các kỳ thi từ trung học đệ nhất cấp lên thi lên đệ nhị cấp, thi tú tài…Và để vào trường công thì phải thi chọn vào trường. Song nếu thi rớt vào trường công thì vẫn có thể đi học cấp trên ở trường tư.

Mục tiêu chính của nền giáo dục VNCH là giáo dục “vị nhân sinh” và “phi chính trị.” Giáo dục nhằm đào tạo ra những nhân tài có thể giúp ích cho quốc gia và hoàn toàn không đá động tới chính trị. Tất cả học sinh từ tiểu học đến trung học trong thời kỳ chiến tranh sôi động nhất trong thập niên 1960-1970 nhưng không hề được dạy chữ nào về chiến tranh, về chiến đấu bảo vệ tổ quốc trong trường học. Họ cũng không được dạy cách phỉ báng kẻ thù, hay thù ghét những người đang tàn phá đất nước, đang tạo ra chiến tranh.

Trong khi đó, ở miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, năm 1956 nhà cầm quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xóa bỏ toàn bộ các trường tư thục, xóa bỏ chương trình Pháp-Việt, tổ chức chương trình giáo dục phổ thông hệ 10 năm sao chép tương tự như của Liên Xô và dạy hoàn toàn bằng tiếng Việt. Trẻ em bắt đầu nhập học từ độ tuổi 6 hoặc 7 vào lớp Một, trong khi lớp 10 cao nhất có thể nhận thanh niên từ 16 đến 20 tuổi. Với một mô hình quản lý đào tạo thống nhất và bắt buộc, chính quyền Bắc Việt Nam có nhiều cơ sở để kiểm soát và thao túng mục tiêu giáo dục đào tạo. Tiếng Việt là ngôn ngữ bắt buộc trong trường học. Trước đó, nhà cầm quyền đổ thừa cho “thực dân” làm ngu dân, thực tế là phần lớn các nhà nho và dân chúng ở miền Bắc không chịu học chữ quốc ngữ, và tổ chức rộng rãi chương trình Bình dân học vụ dạy chữ quốc ngữ cho toàn dân.

Hệ giáo dục phổ thông học 10 năm, do cắt bỏ một số nội dung trong chương trình như bỏ môn sinh ngữ: 

  • Tiểu học (cấp I), bốn năm;
  • Trung học gồm cấp II và cấp III, mỗi cấp có ba năm.

Từ năm 1957, toàn bộ chương trình được đổi thành 10 năm, gồm 5 năm tiểu học và 5 năm trung học. Năm lớp 10 thi trung học coi như thi tú tài ở các nước. Chương trình này duy trì cho đến năm 1975.  

Khác với miền Nam, mục tiêu của giáo dục là “tự do-nhân bản-khai phóng,” giáo dục miền Bắc từ 1954-1975, với ý tưởng muốn đào tạo ra những đứa trẻ trung thành với mục tiêu và tiếng gọi của cộng sản được thể chế hóa vào hệ thống giáo dục, với lý tưởng Marx–Lenin được đưa trực tiếp vào giáo trình. Trường học được thừa nhận là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, và nhiệm vụ của các giáo viên được ban hành rõ ràng. Năm học 1964–1965, Chỉ thị 39 của Bộ Giáo dục đưa ra mục tiêu cụ thể của giáo dục miền Bắc Việt Nam là tạo ra thế hệ phục vụ sản xuất và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1965, hệ thống giáo dục bắt buộc gắn liền với sản xuất và chiến đấu chống “Mỹ–Ngụy.” Trẻ em từ lớp Ba đến lớp Bốn và các cấp trung học cơ sở thì tham gia sản xuất áo ngụy trang, chuẩn bị lương thực, nước uống cho bộ đội.

Học sinh cuối cấp trung học cơ sở thì sẽ phải huấn luyện để hình thành các nhóm sơ cứu, nhóm liên lạc, nhóm vận chuyển, nhóm tuyên truyền và các nhóm giữ gìn vệ sinh công trường, doanh trại, v.v.

Các học sinh cấp trung học phổ thông thì được đào tạo sơ lược về sử dụng vũ khí quân sự, được giáo dục về tinh thần quả cảm, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc. (theo Nguyễn Văn Thành, giáo dục và thi cử qua các thời đại ở Việt Nam, https://www.ninh-hoa.com/bk-ThuyNguyen_GiaoDucvaThiCu-11.htm)

Có thể nói được rằng, mục tiêu “quốc ngữ hóa” cho người Việt của Pháp đã hoàn toàn thành công sau hơn 80 năm. Từ đầu thế kỷ 20, dù tiếng Pháp vẫn là thứ tiếng chính trong nhiều hoạt động hành chính và giao tiếp trong xã hội song tiếng Việt đã phổ biến rộng rãi qua nhiều phương tiện báo chí, sách vở và đời sống. Người Việt, từ chỗ sợ hãi phải học, quay lưng với chữ quốc ngữ đã thấy và tin rằng thứ chữ ấy đã trở thành linh hồn và là tài sản lớn nhất của mình. Sự ép buộc phải học chữ quốc ngữ thuở ban đầu vẫn tồn tại trong một số nhà nho kỳ cựu song người đến trường ngày càng nhiều hơn và chữ nho lần lần trở thành một thứ “sinh ngữ” khó học và là thứ chữ chỉ dành cho các nhà nghiên cứu. Có người tiếc nuối cho rằng, chữ quốc ngữ là nguyên nhân trực tiếp làm cho thế hệ người Việt từ đầu thế kỷ đến nay “xa rời tổ tiên.” Với những người ấy, thì chữ quốc ngữ, tiếng Việt, vẫn là thứ chữ họ bày tỏ chính kiến của bản thân chứ không phải chữ Nho! Giữ gìn tài sản cha ông là điều tốt và cần thiết, nhưng muốn tiến về phía trước thì không thể mỗi bước đi phải ngoái lại nhìn về quá khứ. 

(còn tiếp)

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/

Sách dành cho học sinh tiểu học ở miền Nam trước năm 1975

Giờ học nghề của học sinh miền Bắc trước năm 1975 (hình VNE)

Một lớp học ngoài trời ở miền Bắc trước năm 1975 (hình VNE)


You may also like

Verified by MonsterInsights