TRẦN NHẬT VY
Trước khi vua Gia Long thống nhất đất nước từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, tiếng nói của người Việt ở hai miền Nam-Bắc đã khác nhau. Và chữ quốc ngữ chính là “thứ chữ ghi lại tiếng nói của người Việt bằng mẫu tự Latin.” Trong bài viết này, tôi xin được dùng chữ “tiếng Việt” hoặc “tiếng nói” thay vì chữ quốc ngữ.
Do điều kiện lịch sử, việc phát triển tiếng Việt ở nước ta đã có nhiều khác biệt ở cả hai miền Nam-Bắc từ thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Khi đất nước bị chia cắt ở hai bờ sông Gianh, những người di cư từ bắc miền Trung vào vùng đất mới từ Quảng Bình đến Phú Yên thì tiếng nói của người Việt ở các vùng đã có nhiều thay đổi do điều kiện sống, do lai tạp với các sắc dân khác, các vùng miền khác nhau…
Sau cuộc di cư lớn vào giữa thế kỷ 17, khi chúa Nguyễn tổ chức di cư cho dân vùng Ngũ Quảng vào Nam, thì tiếng Việt ở miền đất mới càng nhiều thay đổi. Không thể không thừa nhận, khi vào sống ở vùng đất mới từ Bà Rịa cho đến Cà Mau, ngay cả dân Ngũ Quảng, tức dân chúng các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (nay là Thừa Thiên-Huế), Quảng Nam và Quảng Ngãi nói chuyện với nhau đôi khi còn cần “phải phiên dịch” mới hiểu nhau, thì làm thế nào để người Việt giao tiếp với người Khmer, người Chàm, người Hoa, người Stieng…đã sống ở vùng đất này trước đó? Đã sống gần nhau, có giao tiếp, có trao đổi, có mua bán…thì phải có một thứ tiếng nói chung để có thể hiểu nhau! Tất nhiên, mỗi cộng đồng dân cư đều có quyền giữ lại những đặc trưng văn hóa của dân tộc mình. Song tiếng nói thì phải “thống nhất” theo nghĩa để có thể cùng hiểu nhau. Không thể có tình trạng ông nói gà bà nói vịt, nói rất nhiều mà hiểu không bao nhiêu!
Trong điều kiện ấy, người Việt sống trên vùng đất mới phải “cập nhật” những tiếng nói mới để hòa nhập vào một xã hội đa chủng tộc và đa văn hóa. Chính vì vậy mà tiền nhân của chúng ta đã Việt hóa rất nhiều từ ngữ từ âm tiếng nói của các sắc dân khác trong quá trình giao tiếp biến thành tiếng Việt để rồi sau đó trở thành chữ quốc ngữ riêng của vùng đất phương Nam.
Và kể từ năm 1747 đến năm 1773, tiếng nói của người miền Nam đã hình thành căn bản rất gần với tiếng nói ngày nay. Điều này được Giám mục Bá Đa Lộc ghi nhận lại trong cuốn Tự vị Annam-Latin được viết trong hai năm 1772-1773. Đây là cuốn Tự vị tiếng miền Nam hoàn toàn và là cuốn tự vị tiếng Việt thứ hai kể từ khi giáo sĩ Đắc Lộ in cuốn tự vị có chữ quốc ngữ đầu tiên vào năm 1651. Không chỉ có tiếng Việt miền Nam, tiếng Latin mà cuốn tự vị của Bá Đa Lộc còn có chữ Nôm, chữ latin, một cuốn tự vị rất đáng được thời nay in lại.
Trước khi vua Gia Long thống nhất đất nước từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, tiếng nói của người Việt ở hai miền Nam-Bắc đã khác nhau. Và chữ quốc ngữ chính là “thứ chữ ghi lại tiếng nói của người Việt bằng mẫu tự Latin.” Trong bài viết này, tôi xin được dùng chữ “tiếng Việt” hoặc “tiếng nói” thay vì chữ quốc ngữ.
Do điều kiện lịch sử, việc phát triển tiếng Việt ở nước ta đã có nhiều khác biệt ở cả hai miền Nam-Bắc từ thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Khi đất nước bị chia cắt ở hai bờ sông Gianh, những người di cư từ bắc miền Trung vào vùng đất mới từ Quảng Bình đến Phú Yên thì tiếng nói của người Việt ở các vùng đã có nhiều thay đổi do điều kiện sống, do lai tạp với các sắc dân khác, các vùng miền khác nhau…
Sau cuộc di cư lớn vào giữa thế kỷ 17, khi chúa Nguyễn tổ chức di cư cho dân vùng Ngũ Quảng vào Nam, thì tiếng Việt ở miền đất mới càng nhiều thay đổi. Không thể không thừa nhận, khi vào sống ở vùng đất mới từ Bà Rịa cho đến Cà Mau, ngay cả dân Ngũ Quảng, tức dân chúng các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (nay là Thừa Thiên-Huế), Quảng Nam và Quảng Ngãi nói chuyện với nhau đôi khi còn cần “phải phiên dịch” mới hiểu nhau, thì làm thế nào để người Việt giao tiếp với người Khmer, người Chàm, người Hoa, người Stieng…đã sống ở vùng đất này trước đó? Đã sống gần nhau, có giao tiếp, có trao đổi, có mua bán…thì phải có một thứ tiếng nói chung để có thể hiểu nhau! Tất nhiên, mỗi cộng đồng dân cư đều có quyền giữ lại những đặc trưng văn hóa của dân tộc mình. Song tiếng nói thì phải “thống nhất” theo nghĩa để có thể cùng hiểu nhau. Không thể có tình trạng ông nói gà bà nói vịt, nói rất nhiều mà hiểu không bao nhiêu!
Trong điều kiện ấy, người Việt sống trên vùng đất mới phải “cập nhật” những tiếng nói mới để hòa nhập vào một xã hội đa chủng tộc và đa văn hóa. Chính vì vậy mà tiền nhân của chúng ta đã Việt hóa rất nhiều từ ngữ từ âm tiếng nói của các sắc dân khác trong quá trình giao tiếp biến thành tiếng Việt để rồi sau đó trở thành chữ quốc ngữ riêng của vùng đất phương Nam.
Và kể từ năm 1747 đến năm 1773, tiếng nói của người miền Nam đã hình thành căn bản rất gần với tiếng nói ngày nay. Điều này được Giám mục Bá Đa Lộc ghi nhận lại trong cuốn Tự vị Annam-Latin được viết trong hai năm 1772-1773. Đây là cuốn Tự vị tiếng miền Nam hoàn toàn và là cuốn tự vị tiếng Việt thứ hai kể từ khi giáo sĩ Đắc Lộ in cuốn tự vị có chữ quốc ngữ đầu tiên vào năm 1651. Không chỉ có tiếng Việt miền Nam, tiếng Latin mà cuốn tự vị của Bá Đa Lộc còn có chữ Nôm, chữ latin, một cuốn tự vị rất đáng được thời nay in lại.
Sự ra đời và tồn tại của cuốn tự vị này cũng rất đáng được mọi người biết. Tự vị được viết trong thời gian Bá Đa Lộc phải chạy loạn nhiều nơi từ Việt Nam sang Campuchia, Thái Lan, Ấn Độ do sự bách đạo của các chúa Nguyễn. Nếu cuốn tự vị của Đắc Lộ phần lớn chữ nghĩa đều ghi nhận tiếng nói của miền Bắc, miền Trung và còn nhiều dấu vết ngọng nghịu của người ngoại quốc, thì tự vị của Bá Đa Lộc đã hoàn chỉnh như tiếng nói và chữ viết ngày nay. Trong trận chiến giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn Ánh, vì ủng hộ Nguyễn Ánh nên người theo đạo Thiên Chúa bị ruồng bắt khắp nơi, và nhiều cơ sở của đạo này bị quân Tây Sơn đốt phá. Trong số đó có tu viện Cà Mau, nơi lưu giữ bản thảo tự vị Bá Đa Lộc. Do đó, người ta tưởng rằng tự vị đã bị cháy! Song đến thập niên 1980, trong một kho lưu trữ ở Pháp người ta đã tìm được một bản sao của tự vị. Sau đó, tự vị đã được linh mục Nguyễn Khắc Xuyên hiệu đính in và phát hành ở Sài Gòn với số lượng rất hạn chế: 500 cuốn! Tuy nhiên, do điều kiện in ấn vào thập niên 1980-1990, tự vị chỉ in lại phần tiếng Việt mà bỏ qua phần chữ Nôm và chữ latin.
Ngày nay, nếu được in lại hoàn toàn như bản thảo ban đầu, tự vị sẽ là một tài liệu rất đáng lưu trữ và nghiên cứu về chữ quốc ngữ lẫn chữ Nôm trong thế kỷ 18. Với bản thảo khổ A4 dầy 662 trang, chưa tính bìa, đây sẽ là cuốn tự điển tiếng Việt rất đáng được những người nghiên cứu tiếng Việt quan tâm.
Từ cuốn tự vị nói trên, chúng ta sẽ thấy chữ quốc ngữ ghi lại tiếng nói của người miền Nam từ thế kỷ 18 đã hoàn toàn có nhiều khác biệt với miền Bắc. Tất nhiên, với tiếng nói miền Trung cũng có khác biệt nhưng không nhiều bởi các tiền nhân “Việt hóa” các ngôn ngữ ở miền Nam hầu hết là người sống ở miền Trung lâu năm.
Đặc điểm ở miền Nam, ngoài dân bản địa tức người Khmer, người Chàm và một số dân tộc khác, thì người di cư nói tiếng Quảng Đông và tiếng Tiều tức Triều Châu là đông nhất. Người Quảng Đông vốn gốc là dân thành thị nên thuận tay về buôn bán. Hầu như khắp miền Nam, ngoài Chợ Lớn nơi tập trung đông người Hoa kể từ năm 1776, người Quảng Đông sống tập trung ở các thị tứ, thị trấn, chợ và sống chính bằng nghề buôn bán. Họ mở nhà hàng, tiệm cà phê, mì, tiệm chạp phô…Còn người Tiều vốn là nông dân nên họ chọn những vùng đất có thể sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi…để sống. Họ trồng lúa, rau, trái cây…và buôn bán những sản vật có từ nông sản như xưng sáu, một món ăn chơi được nấu từ một loại cây. Món hủ tiếu là món ruột của người Tiều sau này được người Quảng phổ biến rộng. Tuy nhiên, để phân biệt hủ tiếu Quảng hay Tiều chúng ta thấy tô hủ tíu có cái bánh tôm là món Tiều, còn không có là món Quảng!
Xin được nhắc lại, nước Trung Hoa xưa vốn là một vùng đất có rất nhiều bộ tộc, dân tộc khác nhau. Sau nhiều cuộc chiến tranh thâu tóm đất đai, đến trước thời Tần Thủy Hoàng thì còn lại sáu nước là Triệu, Yên, Tề, Sở, Hàn và Ngụy, mỗi nước đều có văn hóa, chữ viết và tiếng nói khác nhau. Khi Doanh Chính tức Tần Thủy Hoàng đánh chiếm tất cả sáu nước và thành lập một quốc gia duy nhất đã quyết định “thống nhất chữ viết” và dùng “tiếng Tần trong các hoạt động hành chánh” là thứ tiếng nói chính thức của cả nước. Vì vậy các sử sách thường ghi nhận tiếng Trung Hoa sau thời Tần là “tiếng quan thoại” hay “tiếng Tần” tức là tiếng nói của những bộ tộc xuất phát từ vùng tây bắc Trung Hoa. Đây là một cách để “xóa bỏ” tiếng nói riêng của các nước đã bị thôn tính và cũng để các quan chức do nhà Tần bổ nhiệm dễ trao đổi với nhà cầm quyền trung ương và hiểu được dân chúng muốn nói gì. Dù vậy, đối với dân chúng trong nước, những người có gốc bộ tộc nào, nước nào vẫn cứ tiếp tục nói tiếng của xứ sở mình. Do đó, ở Trung Quốc hiện nay, có rất nhiều thứ tiếng nói khác nhau ở các vùng miền đến mức người miền này nói chuyện người miền khác không thể hiểu được. Ví dụ như người Hà Nam nói người Quảng Đông, Bắc Kinh… không hiểu. Người Phúc Kiến nói người Hải Nam hay Quảng Tây không hiểu. Điển hình là người Hongkong vốn phần lớn là người gốc Quảng Đông, Triều Châu nói chuyện thì người Bắc Kinh, Đài Loan…không hiểu. Chính vì vậy mà sau năm 1997, nhà cầm quyền Trung Quốc đã bắt buộc các trường học ở Hongkong phải dạy “tiếng phổ thông” tức tiếng nói chính thức của nhà cầm quyền vốn là “tiếng quan thoại” cho học sinh và phải dùng tiếng này trong hệ thống hành chánh.
Khi nhà Minh trỗi dậy rồi nhà Thanh chiếm Trung Hoa, rất nhiều dân chúng và quan chức các triều đại trước đã bỏ chạy sang sanh sống ở miền Nam nước ta ngày nay. Phần lớn những người này đều có gốc gác từ Quảng Đông và Triều Châu.
Khi người Việt vào Nam, dù muốn hay không cũng phải “mua bán, trao đổi” và buộc phải giao tiếp với người Hoa. Do vậy việc “Việt hóa” để giao tiếp gần như là chuyện tất nhiên, không thể tránh khỏi.
Trong tiếng nói của bản thân người di cư vào Nam, một ví dụ, mang theo “cá quả” miền Bắc, “cá tra” miền Trung khi nói đến con “cá lóc” ở miền Nam. Nhưng người miền Nam khi đó không biết cả quả, cá tra là con gì mà họ chỉ có con “cá srok” tiếng Khmer. Ngày nay, “cá tra” được người miền Nam hiểu là loại cá được nuôi trong các hầm để tiêu hóa “chất thải” của con người tại vùng đồng bằng sông Cửu Long! Để phù hợp với cuộc sống, để hiểu nhau, tiền nhân chúng ta đã biến “cá srok” thành “cá lóc.” Và cá quả hay cá tra của vùng khác chính là con cá lóc! Thay vì “thân phụ, thân mẫu” các vị đã biến thành “ba, má” từ âm người Quảng Đông “pa, má.” Rất nhiều âm của người Hoa gồm người Quảng Đông và Triều Châu được biến thành tiếng Việt như “cúa nẻng” thành “cô nương, nàng,” “chế” thành “chị,” “khựi” thành “khứa” tức “ông, thằng,” “đại, tiểu” thành “tài, xỉu,” “srak” thành “cá sặc,” “chạp phô” thành “tạp hóa, hàng xén,” “thoái” tức lùi lại ra “thối” trả lại tiền dư, “thày ngòn, tài ngòn” tức Chợ Lớn thành “Sài Gòn.” Riêng hai chữ Sài Gòn chúng tôi sẽ có riêng một bài để phân tích sâu hơn. Những chữ như “mần” trong “làm việc” chắc chắn là tiếng miền Nam. Hay chữ “trái” trong “cây trái” thay cho chữ “quả” âm tiếng Hán rặt ròng đã xuất hiện từ thế kỷ 18. Hoặc chữ “rợ” trong “bí rợ” đã hoàn toàn thay thế chữ “bí ngô” một chữ quen thuộc ở miền Bắc. Hoặc chữ “rớt,” “rụng” đã trở thành quen thuộc của cư dân ở vùng đất mới thay thế các chữ “rơi” là Hán tự, “bông” thay cho “hoa,” “xe” thay cho “xa,” “nhánh, nhành” thay cho “cành,” “thâu” thay cho “thu,” “nhơn” thay cho “nhân”…Về chữ HOA đã có nhà nghiên cứu cho rằng, người miền Nam vì “kỵ úy” vợ của vua Minh Mạng là bà Hồ Thị Hoa nên nói thành “bông.” Xin thưa rằng, đúng là người miền Nam có kỵ úy bà Hoa nhưng không vì vậy mà kêu là “bông” mà người ta kêu là “HUÊ.” Chữ HUÊ các bạn có thể tìm thấy rất nhiều trên báo chí, sách vở xưa còn lưu trữ lại. Còn “bông” không chỉ nói về “bông hoa” mà còn nói chung về các loại rau củ mà nông dân trồng được.
Quá trình Việt hóa này có thể đã diễn ra nhiều năm trước thế kỷ 18, khi người Việt bắt đầu vào sinh sống ở vùng đất mới. Song đến trước khi kết thúc cuộc chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn Ánh diễn ra [1771-1802] thì tương đối hoàn chỉnh.
Dĩ nhiên, tiền nhân chúng ta đã phát minh ra một chữ rất hay là “sinh ngữ” nghĩa là chữ nghĩa luôn phát triển và được cập nhật một cách sống động. Do đó, sẽ có rất nhiều “tử ngữ” những chữ sẽ mất đi, chết đi trong quá trình phát triển ngôn ngữ, tiếng nói. Song những thay đổi này không vượt quá hoàn cảnh sống của dân chúng. Nó thay đổi một cách tự nhiên theo hoàn cảnh giao tiếp chớ không thể nào “bị ép phải thay đổi” để rồi có những phản ứng không tích cực.
Sau hơn 3 thế kỷ phát triển, chữ quốc ngữ hay tiếng nói của người miền Nam là một nguồn vốn quý về ngôn ngữ Việt Nam. Nguồn vốn này cần phải được tôn trọng và gìn giữ chớ không phải phá bỏ nó. Nói một cách nào đó, người Việt ở phương Nam từ thế kỷ 18 đã tích cực “thoát Trung” bằng chính tiếng nói của họ. Dĩ nhiên về mặt văn hóa do ảnh hưởng từ nhiều đời, nhiều thế kỷ, người Việt phương Nam dù cố gắng tạo cho mình một nét văn hóa riêng song vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ văn hóa Trung Hoa. Song phần tiếng nói thì ngày một xa hơn và có nhiều nét riêng hơn so với miền Bắc. Với cuộc sống phóng khoáng, việc làm ăn kiếm sống tương đối dễ dàng, đất đai phì nhiêu, buôn bán tự do và nhiều giao tiếp với các nước khác, thì tiếng nói cũng phong phú, nhẹ nhàng và luôn luôn được cập nhật theo sự phát triển của đời sống.
Đến cuối thế kỷ 19, sau nửa thế kỷ sống với người Pháp, tiếng nói người miền Nam càng thêm phong phú do nhanh chóng cập nhật và Việt hóa. Những chữ mới như “chiếu phim,” “chiếu bóng,” “xe hơi,” “xe petrol,” “xe máy đạp,” “hát xiệc,” “điện,” “xe lửa,” “nhảy đầm”…đã xuất hiện trên báo chí. Từ những năm 1895 trở đi, Sài Gòn có nhiều thay đổi khi xuất hiện những buổi chiếu phim đầu tiên trên đường Charner nay là Nguyễn Huệ. Các buổi chiếu này được dân chúng kêu là “chớp bóng” vì phim không có tiếng và chiếu hình ảnh trên khung vải trắng giống như những cái bóng. Chiếc xe hơi đầu tiên được nhập vào Sài Gòn năm 1898 được người Sài Gòn kêu là “xe petrol” vì chạy bằng xăng dầu. Đèn điện cũng được thắp sáng ban đêm trên các con đường thay cho đèn dầu phộng. Rồi gánh hát xiệc của Hoa Kỳ cũng tới Sài Gòn biểu diễn với nhiều tiết mục có thú vật. Xe lửa và xe điện được chạy trên đường Sài Gòn-Chợ Lớn-Gò Vấp-Hóc Môn-Lái Thiêu từ năm 1879-1881…Xin lưu ý rằng, người miền Nam phân biệt rất rõ giữa xe và tàu. Tất cả các loại phương tiện chạy trên đất đều kêu là “xe” còn những phương tiện chạy dưới nước kêu là “tàu” thay cho “thuyền.” Điểm đặc biệt là do sự phong phú và phóng khoáng về đời sống ghi nhận của tiền nhân cũng “sâu” và “phong phú” hơn. Khi nói về phương tiện di chuyển được dưới nước, miền Nam có rất nhiều thứ. Loại lớn chở được nhiều hàng hóa và người thì kêu là “tàu.” Loại nhỏ hơn là ghe, xuồng…Loại chỉ dùng chở hành khách thì kêu là “đò.” Loại chỉ để chở hàng hóa thì kêu “ghe chài.” Loại dùng cho nhà giàu hoặc quan chức đi lại thì kêu “ghe hầu”…Chữ “xe” cũng vậy. Xuất thân từ chữ “xa” nghĩa là xe của tiếng Hán nhưng người Quảng Đông phát âm là “xế.” Và rồi không biết tự khi nào người Việt biến thành XE. Và XE được kêu tên theo đặc điểm của mỗi loại. Xe do ngựa, bò kéo thì kêu là “xe ngựa,” “xe bò.” Xe có bánh cao su phải bơm hơi mới chạy được thì kêu là “xe hơi.” Xe chạy bằng hơi nước phải đốt lửa để lấy hơi nước thì kêu bằng “xe lửa.” Xe chuyên chở cây gỗ nguyên thân thì kêu bằng “xe be!” Xe chở khách thì kêu bằng “xe đò.” Chữ “đò” nguyên là phương tiện chuyên chở người ở vùng sông nước minh mông của miền Nam. Vì vậy khi có xe chở hành khách thì kêu “xe đò” để mọi người biết rằng đó là xe chở hành khách. Xe chuyển chở cá tôm đi xa thì kêu bằng “xe đông lạnh”….Đặc biệt có lẽ là chữ “đầm.” Xuất phát từ chữ “dame” nghĩa là phụ nữ, chữ “đầm trở thành chữ riêng để chỉ phụ nữ như “áo đầm” là áo của phụ nữ [đàn ông mà mặc áo đầm thì…], “nhảy đầm” là nhảy theo nhạc với phụ nữ…
Nói chung, tiếng miền Nam phát triển khá mạnh, luôn cập nhật theo sự phát triển của đời sống thực tế và ngày càng phong phú hơn trong những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cho tới tận ngày nay.
(còn tiếp)
Cùng một tác gia?: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/



