HAI DỐT
“Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu mà vượn hú biết nhà má đâu
Sương khuya ướt đọng giàn bầu
Em về miệt thứ bỏ sầu cho ai?”
Đây là lời trong bài hát “Em về miệt thứ,” một bài hát khá buồn, được nhiều nữ ca sĩ như Phi Nhung, Hà Phương, Cẩm Ly… ”hốt nước mắt” người nghe bấy lâu khá nhiều.
Nhưng người nghe, đặc biệt là lớp trẻ ngày nay “théc méc” miệt thứ là miệt nào mà các cô gái lấy chồng về đây lại than thở dữ vậy?
Trước hết xin nói về chữ “miệt.” Đây là một chữ khá đặc biệt trong tiếng Việt ở miền Nam và chỉ có ở miền Nam mới nói tới miệt! Và miệt hoàn toàn không có ý khinh hay coi thường mà chỉ nhằm để biết xứ, vùng nào thôi.
Trong tiếng Hán, “miệt” là một chữ nói tới sự “miệt thị,” “khinh miệt” nghĩa là coi thường đối tượng, coi thường thiên hạ và cho rằng tất cả không ra gì, chỉ có ta mới là “dzách lầu,” là số một!
Còn trong chữ Nôm, theo ông Huỳnh Tịnh Paulus Của ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị thì “miệt có nghĩa là xứ, miền, một dải đất.” Gốc tích của chữ miệt theo nghĩa này hiện nay đã mất biệt, có thể là biến âm của tiếng Khmer, thứ chữ mà Hai tui… dốt đặc!
Trong tiếng nói thường ngày, miệt thường được dùng để hỏi, hoặc để chỉ vùng đất nào đó. Ví dụ “Ông (bà, anh, chị, cô, chú) ở miệt nào mà tới đây?” Còn trong trong văn chương thì ít khi thấy dùng. Trước đây, nhà văn Sơn Nam có viết một tác phẩm là “Văn minh miệt vườn,” kỳ dư các nhà văn về sau này ít khi viết “miệt.”
Còn “thứ”?
Thứ có nghĩa là thứ tự, thứ bậc theo cách tính bình thường. Song khi đi chung với chữ miệt thì mang nghĩa khác một chút.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, người Pháp khi đó làm chủ vùng đất Nam Kỳ thuộc địa, đã cho đào hàng loạt kinh ngang dọc tại vùng đất hoang thấp, trũng từ Hậu Giang xuống Cà Mau. Những kinh này nhằm để “xả phèn, xổ mặn” trong đất để biến đất hoang thành đất ở, đất sản xuất được và cũng nhằm để dân chúng đi lại dễ dàng hơn, bởi thời ấy không có đường xá như bây giờ mà đi lại phần lớn bằng ghe, đò. Riêng ở vùng rừng U Minh ở Cà Mau và Rạch Giá, họ đào 12 con kinh cho nước thoát ra vịnh Rạch Giá được gọi theo thứ tự từ kinh một đến kinh 12. Các con kinh này không đặt tên bằng chữ mà đặt tên bằng “Số.” Kinh đầu tiên kêu là “kinh Một,” rồi “kinh Hai”… Vì vậy dân chúng trong vùng, rồi sau đó lan đi các nơi, kêu là “kinh Thứ,” lần lần được rút gọn thành “thứ.” Và về sau, gần như hai chữ “miệt thứ” được dành riêng cho vùng đất này và trung tâm của Miệt Thứ ngày nay nằm ở quận Năm Căn cũ.
Từ vùng đất hoang không ở, không trồng cấy được biến thành vùng đất sống động nên nhiều người nghèo kéo về đây sinh sống. Phần lớn những người về miệt thứ cư ngụ đều là người nghèo, người trốn xâu, lậu thuế, dân giang hồ tứ xứ và những người không ưa nhà cầm quyền đương thời. Bởi vậy, tuy nói là “nhiều người” nhưng thực ra vẫn “không nhiều lắm.” Mỗi gia đình có thể, tùy theo sức, khai phát đất hoang đắp bờ, lên liếp để có được vài ba hoặc vài chục mẫu đất vừa để ở, vừa trồng cấy. Trước năm 1975, thì vùng đất này vẫn xa xôi lắm, ít người cư ngụ dù rộng minh mông.
Và khi được hỏi bạn ở đâu mà bạn cho biết bạn ở “miệt thứ” thì ai nấy, nhất là những người quen sống ở thành thị, đều lắc đầu, le lưỡi “xa quá.” Xa quá không chỉ vì địa lý mà xa vì nhiều lý do khác. Bởi từ Sài Gòn xuống Cà Mau chỉ khoảng 300 cây số, chừng 200 miles. Nếu có xa lộ như ở Hoa Kỳ thì chỉ đi hai ba tiếng đồng hồ là “tới nhà!” Song ngày xưa đi cực lắm, để về miệt thứ bạn phải đi xe lửa, xe đò mất cả ngày xuống tới Mỹ Tho, Cần Thơ hoặc Bạc Liêu, hay trung tâm tỉnh Cà Mau. Rồi sau đó phải đi đò có khi mất một hai ngày vô miệt thứ mấy, có nhiều thứ lắm, mới tới nhà. Mà đò không chạy như ngày nay, có khi một ngày chỉ có một chuyến, trễ đò là phải chờ bữa sau. Đối với người thành thị đi như vậy cực quá và mất nhiều thời gian nên nói là “rất xa!” Chưa kể trên đường đi còn bị thứ này thứ kia nên miệt thứ càng xa hơn. Một cô gái sau khi về nhà chồng ở miệt thứ, không rành đường xá, đi lại thì coi như cả đời không về nhà cha mẹ được nữa. Bởi vậy mới có câu ca dao “Má ơi đừng gả con xa/ Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu!” Bởi nơi đây, dù có ghe, đò đi lại hàng ngày nhưng vẫn là vùng đất “muỗi kêu như sáo thổi/Đỉa lội như bánh canh.”
Xa quá còn vì chiến tranh liên tiếp nổ ra ở vùng này. Thời Pháp còn cai trị thì quân kháng chiến lấy vùng này làm căn cứ. Rồi sau đó, Việt Minh cũng lấy nơi đây làm chiến khu. Sau nữa thì… cũng vậy!
Thập niên 1980, nhà thơ Đỗ Trung Quân khi đó là một thanh niên xung phong được đưa về vùng này để “đào kinh, vét mương” có làm bài thơ Hương tràm:
Mênh mông bốn bề là tràm,
Chẳng biết tháng nào nở hoa
Mà hương thơm dường như bốn mùa,
Ướp mật vào hơi em thở!
Cho thấy miệt thứ khi ấy vẫn còn hoang hóa, ít người ở.
Nay thì… đất đã trở thành vàng! Đâu cũng thấy người. Đường xá rộng mở, xe gắn máy, xe hơi, tàu đò có khi đến tận cửa nhà nên… miệt thứ hết xa! Nhiều người ở miệt thứ giờ đã trở thành đại gia:
Này hội cái ca cầm, là này hội cái ca cầm
Chúc cậu mợ giàu sang,
giàu sang, giàu sang tới chết!
Trên thì ô tô, dưới thì canô
Nằm thì nằm giường lèo,
đắp là đắp nệm gấm
Đi giày là giày Gia Định,
ngồi ghế là ghế phượng loan
Cậu bịt ba cái răng vàng,
trên đầu mợ xịt dầu thơm, dầu thơm
Đây là lời bài hát Hội ca cầm, một bài hát dân dã với nhiều dị bản, nói về sự “giàu lên” của những người nghèo ở nông thôn trong xã hội thời xưa. Nhờ đất đai mới, nhờ thời tiết thuận lợi trúng mùa một số người đã trở thành điền chủ và con cái họ trở thành những “công tử vườn!”
Các công tử này dù túi rủng rỉnh tiền, răng bịt vàng có khi cả hàm, tay đeo nhẫn hột xoàn, ăn trắng mặc trơn nhưng học hành không tới đâu và phong thái vẫn cứ… quê quê! Có thể nói được rằng, đại diện cho giới “công tử vườn” là cậu Ba Qui có hỗn danh là “hắc công tử” và thường được biết là Công tử Bạc Liêu. Theo nhà văn Sơn Nam kể lại thì khi cậu Ba lên Sài Gòn lần đầu mua xe hơi, thì cậu mặc một bộ đồ pijama màu ngà, chân mang guốc, đầu đội nón cối [loại nón mà thực dân Anh hay đội]. Cậu vô công ty Phi Long ở Sài Gòn [nay là khách sạn New World] chỉ vô một chiếc trắc xông mới cáu hỏi “Nhiêu?” Nhân viên bán xe ngó bộ dạng của cậu coi bộ “ít tiền” nên trả lời “Mắc lắm!” Nhưng “Mắc lắm là nhiêu?” Sau khi biết giá chiếc xe, cậu nói “Lấy hai chiếc!” khiến nhân viên bán xe muốn té ngửa. Bởi anh ta chưa từng thấy ai mua xe hơi mà mua một lần tới hai chiếc! Không rõ ông Sơn Nam nói thiệt hay nói chơi nhưng đây cũng là một trong những “huyền thoại” về công tử Bạc Liêu.
Giờ mà ai ở miệt thứ chưa chắc đã nghèo nhen! Bà nào cô nào trúng phải ông chồng dân miệt thứ nhiều khi chỉ một vài ngày là trở thành đại gia thứ thiệt luôn đó!
________________
KHI CHỒNG HỎI “EM GIẬN ANH HẢ?”
Không hiểu vì sao, đàn ông luôn hỏi đúng câu nguy hiểm nhất thế giới:
— Em giận anh hả?
Và phụ nữ, như một bản năng, luôn đáp:
— Đâu có!
Đáp rồi lặng thinh luôn, có khi mấy tiếng đồng hồ.
Cái “đâu có” ấy, nếu được đo bằng công nghệ, chắc mạnh ngang bom nguyên tử chắc dư sức rung cả mái hôn nhân.
Chồng tôi từng hỏi, rồi thở phào khi nghe “đâu có.” Tôi bảo: “Ừ, em không giận, chỉ hơi thất vọng… thôi.”
Cái “nhẹ thôi” ấy mới là thứ khiến đàn ông mất ngủ. Vì cái“thất vọng” ấy, so với “giận,” nguy hiểm hơn nhiều. Giận là cảm xúc nhất thời. Thất vọng là dấu hiệu có ai đó đã im lặng hơi lâu.
Hôm sau, anh nấu bữa tối, rửa chén, mua hoa. Tôi lại cười: “Em không cần hoa, chỉ cần anh đừng hỏi mấy câu kiểu đó nữa. Cứ ôm cái là biết liền.”
Thế là anh ôm thật, một cái ôm thật chặt. Mọi chuyện xong nhanh hơn bất kỳ cuộc tranh luận nào.
Kết luận của vợ: trong hôn nhân, đôi khi giải pháp không nằm ở lời nói, mà ở một cái ôm đúng lúc.
Còn câu “đâu có” — nó không có nghĩa là không giận, mà chỉ là còn thương nên chưa muốn giận to thôi.
Similar articles: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/van-hoa/chu-nghia/

