Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 24 Báo chí quốc ngữ: Nam Kỳ tuần báo

by Tim Bui
Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 24 Báo chí quốc ngữ: Nam Kỳ tuần báo

TRẦN NHẬT VY

Nam Kỳ là tờ báo “bí mật” trong thế kỷ 20. Bí mật vì “chưa ai thấy” được tờ báo này dù trong danh mục báo chí quốc ngữ có ghi nhận. Mãi đến những năm cuối thế kỷ 20 tờ báo mới xuất hiện và giáo sư Nguyễn Văn Trung được coi là người đầu tiên “thấy mặt,” sau người sưu tầm và lưu giữ, tờ báo này và đã nói tới một cách tương đối trong tác phẩm Lục Châu Học. Tôi suy đoán, có thể tờ báo được nhà sưu tầm Vương Hồng Sển lưu giữ và sau khi ông mất nhiều sách báo xưa mới xuất hiện, trong đó có bộ báo Nam Kỳ.

Tới thập niên thứ hai của thế kỷ 21 tôi mới khám phá ra đầy đủ bộ báo này, dù trước đó đã có một phần lớn.

Cuối thế kỷ 19, ông Alfred Schreiner, một nhà kinh doanh người Pháp, đã xuất bản một tờ báo tư nhân thứ hai và là tờ báo thứ ba của thế kỷ này có tên “NAM KỲ” tại Sài Gòn là tờ “nhựt trình mỗi tuần lễ in một lần nhằm ngày thứ năm.” Về hai chữ “nhựt trình đã có nhà nghiên cứu không hiểu tiếng Sài Gòn cho rằng đây là tờ “nhựt báo.” Xin thưa rằng, nhựt trình trong tiếng nói người Sài Gòn luôn có nghĩa là “tờ báo” và không dính dáng gì tới chuyện nhật báo hay tuần báo. Cũng có người lộn tờ Nam Kỳ của ông A.Schreiner với tờ “Nam Kỳ tuần báo của ông Hồ Văn Trung” tức nhà văn Hồ Biểu Chánh xuất bản trong thập niên 1940 của thế kỷ 20. Hai tờ báo này tuy có tên giống nhau nhưng thời điểm xuất bản khác nhau và không có chút dính dáng nào với nhau, thậm chí nội dung cũng khác hoàn toàn.

So với hai tờ báo ra đời trước đó là Gia Định Báo và Thông Loại Khóa Trình, Nam Kỳ tuy vẫn nặng về nghị luận, ít bình luận và điều tra nhưng nội dung gần với báo chí ngày nay hơn: đó là thông tin. 

Nam Kỳ có 16 trang khổ A4, ra đời vào ngày thứ Năm 21/10/1897 và đình bản ở số 125 ngày 19/3/1900 với lời chia tay in ở cột một trang nhất. “Lời cùng quí hữu coi nhựt báo ta. Số này ngưng cuộc Nam Kỳ nhựt trình như đã in bấy lâu. Nhựt trình sẽ ngưng và khi ta về nước Langsa mà trở lại xứ này ta sẽ ra sức làm cho khá hơn…Trong tờ nhựt trình chót này, ta xin cảm ơn hết thảy quí hữu đã ra tay tá trợ ta cách hảo tâm, nhứt là người nào mua, từ ngày nhựt báo mới lập cho tới bây giờ, mà chẳng hề bỏ ta. Cũng xin cảm ơn mấy quới viên đã gởi bài đặt hay là truyện diễn ra, lại sự như vậy chung cùng với ta mà mở lòng dân, bởi vì nó là một đều nhà nước cho phép mà thôi…”. Ông chủ báo còn làm một bài thơ với mấy câu mở đầu:

Nghiêng mình giã bạn hồi hương
Vững bền gan sắt mến thương lòng vàng
Anh em ở lại bình an
Đây về viếng kiểng lo toan việc nhà…”

Tòa soạn báo đặt tại số 53 rue Nationale, Saigon [nay là đường Hai Bà Trưng] do ông Alfred Schreiner làm chủ nhiệm và ông Trương Minh Ký làm chủ bút. Đây là tờ báo do tư nhân làm chủ thứ hai sau tờ Thông Loại Khóa Trình của ông Trương Vĩnh Ký. 
Báo có 16 trang in, phân nửa là các trang quảng cáo dịch vụ, một số lượng đáng kể vào thời kỳ ấy. Trước đó, khi tờ Gia Định Báo thực hiện trang quảng cáo dịch vụ vào năm 1881, thì tờ báo này cũng chỉ dành có một trang quảng cáo kéo dài cho tới khi đình bản vào đầu năm 1910. Còn tờ Thông Loại Khóa Trình của ông Trương Vĩnh Ký thì hoàn toàn không có quảng cáo, trừ vài thông báo của chính chủ nhiệm chèn vào trang nội dung.

So với báo chí ngày nay, số trang quảng cáo dịch vụ trên tờ Nam Kỳ vượt quá sự mơ ước của tất cả các tờ báo đương đại. Bởi quảng cáo dịch vụ chính là nguồn tài chính căn bản giúp cho tờ báo sống được và làm cho tờ báo tới tay độc giả với giá rẻ. Cùng năm 1897, giá của Gia Định Báo là $6/năm thì giá của Nam Kỳ chỉ có $5/năm trên toàn cõi Đông Dương. Thời kỳ này, một đồng Đông Dương tương đương 5 Franc. So sánh như vậy để thấy việc quảng cáo dịch vụ trên báo quan trọng thế nào đối với tờ báo và độc giả. Bởi nếu không có quảng cáo, tờ báo sẽ tới tay độc giả với giá mắc hơn và như vậy sẽ thu hẹp số người mua báo một cách đáng tiếc. Báo chí ngày nay cũng vậy, nếu không có quảng cáo tờ báo khó thể tới tay độc giả với giá “mềm” được. Và quảng cáo ít cũng thường là một trong những nguyên nhân đưa tới việc tờ báo phải đình bản!

Ngoài số trang quảng cáo khủng, Nam Kỳ còn có nhiều bài viết về khoa học thiên nhiên, vật lý cùng nhiều tin tức trong và ngoài nước. Báo cũng có mục Tiểu tự, trao đổi với độc giả tương tự các mục giao lưu hay trả lời bạn đọc trên các báo ngày nay. Báo không có những bài bình luận chính trị, nhưng lại có một số bài tường thuật rất đáng đọc mà ngày nay những bài này trở thành tài liệu lịch sử như tường thuật về đám tang ông Trương Vĩnh Ký, đám tang Cậu Hai Miêng, xử tử tội nhân, lễ phong chức giám mục, các lễ lộc lớn… tại Sài Gòn.

Nam Kỳ số 46 ngày 8/9/1898 tường thuật đám tang ông Trương Vĩnh Ký, có đoạn: “đám xác ông Trương Vĩnh Ký đưa hôm thứ ba, mồng 6 tháng Septembre 1898, hồi 6 giờ rưởi sớm mai; nào các viên chức langsa, annam, nào bà con thân thuộc, nào những học trò người đã dạy dỗ thuở nay đến đi đưa xác người thì đông chẳng kể xiết, rất nên là sang trọng, xưa nay chưa hề thấy đám ông nào được như vậy bao giờ.

Quan tài rời khỏi nhà hồi 6 giờ rưởi, có mướn bộ xe đám xác bực nhứt, bốn ngựa kéo. Quan cữu bao bằng gấm, cao lớn, co rôm quá sức, để vừa vặn cái xe mà thôi; phải mà cao một thí nữa, thì để vào xe không lọt. Lại có giàn đồ khiêng couronne cả lớn nhỏ được 18 bộ. Hết thảy các sở, các nơi, langsa, annam cũng đều tỏ lòng thương tiếc người hiền sỉ, nên mỗi sở làm việc, mỗi hội riêng đều gởi phần lễ điếu mà tống chung người. Xung quanh xe xác thì có ông Jossemel giáo sư, ông Thirode Chánh thông ngôn, ông Tổng đốc Lộc, Đốc phủ Cũa, Đốc phủ Tràng. Ông Trương Minh Ký cầm dải quan tài…”

Một phần bài tường thuật đám tang ông Trương Vĩnh Ký trên số 46 ngày 8/9/1898

Qua các bài viết, các bài tường thuật, chúng ta ngày nay ngoài việc biết thêm các sự kiện diễn ra vào cuối thế kỷ 19 tại Sài Gòn, thì còn biết thêm chữ quốc ngữ thời ấy ra sao, cách viết thế nào, chấm câu làm sao….

Đặc biệt, báo dành một phần quan trọng cho các tác phẩm văn học trong và ngoài nước.

Những trang văn học này, bao gồm cả văn vần lẫn văn xuôi nhiều khi chiếm một hai trang báo. 

Truyện phương Tây dịch đầu tiên thấy được trên Nam Kỳ là truyện 1001 đêm với truyện Alibaba và 40 tên cướp, bắt đầu từ số 30 ngày 19/5/1898. Truyện dịch này không thấy đề tên người dịch! Song trên báo xưa, thường ghi tên tác giả dịch hoặc viết, trừ trường hợp các bài dịch do chủ nhiệm hoặc chủ bút thực hiện thì không ghi. Có thể đoán răng loạt truyện 1001 đêm do ông Schreiner hoặc ông Trương Minh Ký dịch! Đây chỉ là suy đoán không lấy làm chắc chắn là của ai!

Hình vẽ chân dung ông Trương Vĩnh Ký in trên báo Nam Kỳ số 46. Đây là tấm hình in trên báo đầu tiên trong lịch sử báo chí quốc ngữ. Hình do ông Nguyễn Hữu Nhiêu, rể ông Ký, vẽ.

Nói về truyện dịch thì Gia Định Báo đi tiên phong. Từ năm 1866, tờ báo này đã có nhiều truyện dịch, đa số là truyện Tàu và truyện phương Tây đầu tiên là truyện Rô Bên Sân do ông Huỳnh Mai Liễu dịch và đăng nhiều kỳ trên báo. Tôi đã tốn khá nhiều thời gian để “hiểu” mấy chữ Rô Bên Sân là gì! Và sau nhiều lần đọc nội dung, tôi biết được đây là truyện du ký có tên là Robinson Crusoe. Robinson Crusoe (bản dịch tại Việt Nam là Rô-bin-xơn Cru-xô hoặc Rô bin xơn ngoài hoang đảo) là tiểu thuyết của nhà văn người Anh Daniel Defoe (1660-1731). Hồi ấy, Gia Định Báo không ghi tên tác giả gốc cũng như tên người dịch nên…

Trong thập niên 1880, ông Trương Minh Ký cũng dịch và viết lại nhiều truyện phương Tây in trên tờ Gia Định Báo. Nói “viết lại” để thừa nhận ông Minh Ký đã “sáng tác lại” các tác phẩm của phương Tây chứ không phải là “dịch thuật” bình thường. Ông đã viết lại thơ của La Fontaine bằng văn xuôi, một cách làm hoàn toàn mới trong thế kỷ 19, điều mà nhiều nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng ông chỉ là “người dịch!” Xin nhớ rằng, ông Minh Ký có nhiều tác phẩm bằng văn vần dài cả mấy ngàn câu như Như Tây Nhựt Trình chẳng hạn.

Truyện sáng tác bằng văn xuôi cũng bắt đầu ở Gia Định Báo, mà người đi tiên phong cũng là ông Trương Minh Ký.

Trong tờ Nam Kỳ, truyện sáng tác của người Việt mà tôi phát hiện phần lớn là của ông Trương Minh Ký với bút danh Mai Nham. Song ông Ký chỉ viết truyện ngắn và phần lớn là truyện vui cười bên cạnh những sáng tác bằng văn vần. Tác giả viết văn xuôi truyện Việt trăm phần trăm đăng nhiều kỳ trên báo này là ông Nguyễn Dư Hoài với truyện Đố ngộ cố nhân, tương đàm thục đăng sáu kỳ từ số 78 ngày 27/4/1899 đến số 83 ngày 1/6/1899. Đây là một chuyện tình rất buồn của hai người bạn học ở miền Tây Nam Kỳ. 

Ông Nguyễn Dư Hoài, tác giả của Đố ngộ cố nhân tương đàm thục ký, theo niên giám Nam Kỳ năm 1899 là “ký lục hạng ba ở tòa án hạt Bến Tre vào ngạch năm 1895”. Cho tới nay, tôi chưa tìm được nhiều chi tiết hơn trong tiểu sử của ông. Qua các tờ báo xưa thì ông có viết một số bài báo về nông nghiệp trên tờ Nông Cổ Mín Đàm năm 1902 nhưng không tìm thấy truyện sáng tác nào của ông ngoài truyện đăng trên Nam Kỳ. Thật đáng tiếc!

Ngoài quảng cáo và văn xuôi, Nam Kỳ còn là tờ báo có nhiều tin tức đáng chú ý nhất của thế kỷ 19. Không rõ phân tin tức các tờ báo bằng tiếng Pháp lúc đó ra sao, chứ Nam Kỳ có đủ loại tin tức từ ở Nam Kỳ ra tới nhiều quốc gia khác. Trên báo tin tức có các mục “công vụ” là tin về các thông báo, quyết định của nhà cầm quyền, “ngoại quấc tân văn” là tin quốc tế như ngày nay, “điểm báo” các tin từ Pháp đặc biệt là Paris phần lớn là tin về chánh trị, “tạp vụ” là tin ở Nam Kỳ và Sài Gòn, Chợ Lớn, rồi “Đông Dương chư hạt” là tin về Đông Dương tức là tin trong nước Việt Nam, Lào và Campuchia, cùng các mục thông báo và Tiểu tự, một mục dành để trao đổi với độc giả.

Tin tức chiếm phần nhiều các trang báo, khoảng từ bốn đến sáu trang. Đây cũng là số lượng rất đáng kể trên một tờ báo. Báo cũng đăng nhiều tin tường thuật về các vụ xử án, phong chức cho các giám mục, các buổi diễn hát xiệc, chiếu phim… Đặc biệt báo thông tin nhanh về các “cái mới” xuất hiện ở Đông Dương, ở Việt Nam hay ở Sài Gòn. Tỉ như vụ chiếu phim nhiều ngày ở trước chợ Sài Gòn, khu vực nay kêu là Chợ Cũ, tường thuật khá chi tiết. Hay việc chiếc xe hơi đầu tiên nhập vô Sài Gòn cũng được ghi nhận. Vụ đoàn hát xiệc thú của Hoa Kỳ đến biểu diễn ở Sài Gòn cũng được tường thuật chi tiết. Về vụ chiếc xe hơi đầu tiên nhập vào nước ta báo viết trên số 65 ngày 19/1/1899 như sau “Có một cái xe automobile, chạy bằng hơi dầu petrole, mới đem qua tới Saigon kì tàu trước, được ít bữa rày. Xe này là thứ xe bốn bánh, xung quanh niền có bao da thun và có một bộ máy nhỏ xíu để chạy, không cần ngựa voi chi cả, thuở nay ở Saigon chưa có thấy thứ xe kì lạ ấy bao giờ. Trong chừng vài mươi năm nữa, có lẽ thứ xe ấy sẽ tràn ra khắp xứ này, thì hết thấy những xe ngựa kéo. Chừng đó con ngựa mới hết phàn nàn về số phận nó cực khổ nữa”

Đây không chỉ là tin tức mà còn là một lời “tiên tri” về việc phát triển xe hơi ở Sài Gòn và cả Việt Nam. Đúng như cái tin này viết, ngày nay, không phải “vài mươi năm” mà là hơn 100 năm, xe ngựa hoàn toàn biến mất và xe hơi đang là phương tiện đi lại chủ lực của mọi người. 

Phần tin tức của Nam Kỳ cũng cung cấp cho người ngày nay những thông tin quý giá về hoạt động và xã hội cuối thế kỷ 19. 

Về mặt chữ nghĩa trên Nam Kỳ có thể nói là chuẩn, tất nhiên có không ít những chữ mà ngày nay đã trở thành tử ngữ. Song vào thời kỳ mà chữ quốc ngữ được phổ biến với sự nghi ngờ của người Việt, thì việc ghi nhận tiếng nói của người Việt bằng chữ quốc ngữ như thế là rất tốt! Dĩ nhiên cách nói của người xưa có nhiều khoảng cách nhất định so với ngày nay. Nhiều khi bị cho là “nhà quê” cũng là bình thường bởi hầu hết những người học và biết quốc ngữ đều xuất thân ở nhà quê trong một điều kiện khi đó là thành thị chưa phát triển bao nhiêu. 

Rất nhiều chữ quốc ngữ xưa ngày nay đã biến mất như chữ “giái” bị biến ấm thành “giới,” “ngoạt” tức là “nguyệt,” “quấc” đã biến thành “quốc,” “bá” đã trở thành “bách,” “kiếu” biến thành “cáo, từ chối,” “ưng” thành “chịu”….

Đọc Nam Kỳ, ngày nay chúng ta hiểu phần lớn những gì báo viết. Điều đó có nghĩa rằng chữ quốc của báo này đã gần với chữ viết ngày nay.

(Còn tiếp)

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/

You may also like

Verified by MonsterInsights