Báo chí chữ quốc ngữ: Gia Định Báo

by Tim Bui
Báo chí chữ quốc ngữ: Gia Định Báo

TRẦN NHẬT VY

Trong một nghiên cứu, một học giả ở Sài Gòn đã công bố rằng “Gia Định Báo là tờ báo song ngữ là: chữ quốc ngữ và chữ Nho.”

Không chỉ vậy, từ trước năm 1975 cho tới nay, các nhà nghiên cứu đi trước tôi đều nhận định “Gia Định Báo là tờ công báo!

Công bố của nhà nghiên cứu này đã được phổ biến rộng rãi và được chấp nhận ở người đọc sách cũng như giới nghiên cứu. Sự lan tỏa này rất có thể sẽ làm cho đời sau hiểu sai về tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên của chúng ta, nếu không có sự “điều chỉnh,” nói lại cho đúng. Đặc biệt trong tình trạng được thấy tờ báo đầu tiên này ngày càng khó và người nghiên cứu về sau ngày càng ít tham khảo trực tiếp trên văn bản gốc mà chỉ dẫn lại những tài liệu đã có!

Vì vậy tôi, một nhà báo có thâm niên hơn 40 năm, một người có nhiều năm nghiên cứu báo chí quốc ngữ và may mắn hơn một chút là đã đọc được nhiều số báo từ năm đầu đến những năm cuối so với các tiền bối, xin được “nói lại cho rõ” để tránh lầm lẫn về sau.

Gia Định Báo có phải là tờ báo song ngữ: chữ quốc ngữ và chữ Nho hay không?

Xin thưa là không!

Tấm hình trên là măng sét tờ Gia Định Báo số 1 ngày 15/1/1866 và dưới là tờ số 52 ngày 24/12/1906.

Hai tấm hình này cho thấy ngay từ thời kỳ đầu tờ báo chỉ có ba chữ Nho thể hiện tên tờ báo nằm trên măng sét. Và những năm cuối cùng thì ba chữ nho không còn nữa. Những chữ Nho này là những chữ “duy nhất” được in trên Gia Định Báo, ngoài ra không có chữ nho nào khác, trừ những trích dẫn trong các bài viết.

Trong nghiên cứu về báo chí của tôi, lịch sử báo chí ở Nam Kỳ, xin nhấn mạnh, chưa bao giờ có báo song ngữ tiếng Việt và tiếng Hán!

Điều này hoàn toàn khác với tờ Nam Phong ở miền Bắc ra năm 1917 là tờ báo có hai thứ chữ Việt và Hán. Lý do đơn giản là cho đến năm 1917, chế độ thi cử, học hành ở miền Bắc và Trung vẫn còn là chữ Nho. Giới Nho học, giới tinh hoa của miền Bắc thuở ấy dù đã thấy “cái lợi” của việc học chữ quốc ngữ và cũng đã có một số trường dạy quốc ngữ ở Hà Nội cùng một vài tỉnh từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, song họ kiên quyết chống lại, không học chữ quốc ngữ. Vì vậy báo chí quốc ngữ ra đời ở miền Bắc phải có cả hai thứ tiếng Việt-Hán thì mới có người đọc hoặc người ta mới đọc được.

Ở Nam Kỳ thì trái lại. Sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, chữ nho đã lần lần bị loại ra khỏi các văn bản chính thức, sách vở. Số người cực đoan chống lại việc học chữ quốc ngữ tuy nhiều nhằm bảo vệ “chữ của ông bà” nhưng báo là do nhà cầm quyền in và phát hành, số người đọc báo lại là giới học sinh, thông ngôn, lớp trí thức làm việc cho Pháp và những người biết chữ quốc ngữ trong giới theo đạo Thiên Chúa. 

Còn lớp trí thức cực đoan nhất định không học chữ quốc ngữ thì ngoài các thầy giáo làng hoặc những người tham gia vào các phong trào kháng chiến chống Pháp có mức tác động “chữ nghĩa” đến dân chúng nói chung không nhiều. Họ chỉ có thể truyền bá kiến thức trong một phạm vi hẹp như làng xóm, bằng những tài liệu và kiến thức cũ dưới sự che chắn của một số viên chức cấp thấp ở làng, tổng. Trong khi đó, việc phổ biến chữ quốc ngữ đã và đang trở thành một “làn sóng mới” ở cả Nam Kỳ. Việc bắt buộc các viên chức làng xã “phải biết chữ quốc ngữ,” buộc các liên lạc giữa dân và nhà cầm quyền “phải bằng chữ quốc ngữ” và việc các viên thông ngôn xấu buộc dân chúng phải đưa tiền khi đứng giữa dân và nhà cầm quyền, hoặc có thông ngôn còn “dịch sai” những ý muốn của dân khiến người không biết chữ quốc ngữ “bị thiệt thòi!” Chưa kể làn sóng này làm cho nhiều người “thức thời” gió chiều nào che chiều ấy, cùng lớp trẻ của Nam Kỳ thấy được “nhiều cái lợi.” Đó là chữ quốc ngữ “dễ học” hơn chữ nho. Biết chữ quốc ngữ dễ tiến thân, mau làm giàu. Chưa kể việc biết chữ quốc ngữ có thể học được nhiều thứ về mặt khoa học mà trong các sách vở chữ nho hoàn toàn không có.

Vì vậy, dù việc học chữ nho vẫn tồn tại ở nhiều làng xã, trong các gia đình thủ cựu nhưng sức lan tỏa không lớn và ngày càng khó khăn hơn. Có thể đại diện cho giới trí thức cực đoan lúc bấy giờ chống lại việc học chữ quốc ngữ tiêu biểu là cụ Nguyễn Đình Chiểu, nhưng những người ấy không đọc báo của Tây dù là chữ gì!  

Khi Gia Định Báo ra đời là nhằm mục đích “khuyến khích” mọi người từ công chức cho tới dân chúng phải “biết chữ quốc ngữ.” Đó cũng là mục tiêu mà người Pháp muốn thực hiện nhằm loại bỏ chữ Nho ra khỏi đời sống của dân chúng nhằm ‘cắt những liên lạc giữa người Nam Kỳ với triều Nguyễn” dù thời điểm này số người biết chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ không nhiều. Do dó, tờ báo ra đời chỉ nhằm mục đích “phổ biến chữ quốc ngữ” để học trò biết mặt chữ như thế nào nên không cần đến chữ Hán như ở miền Bắc.

Vài năm gần đây, tôi cũng sưu tầm được một bản Gia Định Báo bằng chữ Hán hoàn toàn. Rất có thể đây là tờ báo dành cho người Hoa ở Chợ Lớn. Tờ báo này mang xuất bản năm 1862, tức trước khi tờ báo quốc ngữ ra đời ba năm. Có thể đây cũng là thời điểm nhà cầm quyền Pháp quyết định ra báo, song vì thiếu bộ in chữ quốc ngữ nên năm 1865 báo in chữ quốc ngữ mới ra đời được.  Nếu đã có một tờ báo chữ Nho rồi thì mắc gì phải có báo song ngữ?

Trang đầu của tờ Gia Định Báo chữ nho năm 1862

Sự phát giác ra tờ báo chữ nho này củng cố cho nguồn tin từ năm 1942 “nhà cầm quyền phải mất hai năm đặt ở Pháp bộ chữ in chữ quốc ngữ.” Và việc này cũng cho thấy Gia Định Báo không hề là báo song ngữ mà là hai tờ báo riêng biệt, một bằng chữ quốc ngữ, một bằng chữ Hán.

Gia Định Báo có phải là công báo hay không?

Xin thưa, không và có!

Trước tiên phải thừa nhận rằng, việc lưu trữ sách báo, văn thư cùng các tài liệu bằng giấy của người Việt chúng ta rất là tệ! Chưa kể thời tiết ở nước ta luôn ẩm ướt dễ làm cho những tài liệu bằng giấy mau xuống cấp, hư hỏng. Rồi do thiếu chăm sóc những tài liệu này bị rách, rã, mối mọt ăn vì ẩm mốc, bể vì quá khô khan. Kế đó là chiến tranh kéo dài nhiều năm tháng khiến nhiều tài liệu sách báo bằng giấy bị mất mát khá nhiều.

Trước năm 1975, Sài Gòn có có ba thư viện lớn là thư viện Sài Gòn, thư viện Pháp và thư viện Đắc Lộ. Cả ba thư viện đều có những tờ báo xưa, quý hiếm nhưng lại không chia sẻ cho nhau, mạnh ai nấy giữ, xài riêng. 

Gia Định Báo chỉ có ở thư viện thành phố và chỉ có bộ báo năm 1870, [cho tới năm 1974, một số nhà nghiên cứu như Phạm Long Điền còn đọc được] nhưng nay không còn thấy nữa! Thư viện nhỏ trong Bảo tàng lịch sử tức Việc khảo cổ trước đó thì giữ bộ báo của bốn năm từ 1882 đến 1885. Riêng bộ báo năm 1881 thì ở… nhà ông Vương Hồng Sển! Bộ báo năm 1881 có 48 số [mất vài số] sau khi ông Sển mất ít lâu đã được bán ve chai với giá… 200 ngàn đồng, một số tiền bèo bọt! Người mua là một nhà sưu tập ở quận 10. May mắn tôi đã chụp lại được toàn bộ bộ báo này. 

Sau năm 1975, thư viện Sài Gòn nay là thư viện Khoa học tổng hợp TPHCM được bổ sung ba tờ Gia Định Báo từ số bốn đến số sáu của năm đầu tiên tức năm 1865 bằng vi phim. Song những tờ báo này đọc cũng khó vô cùng vì phải tốn nhiều thứ giấy tờ mới vào phòng đọc “hạn chế” và hệ thống vi phim quá cũ kỹ, mờ, nhiều bụi bặm! Muốn đọc được chữ nhiều khi phải dùng tới kiếng hiển vi! 

Thư viện Pháp đã bỏ lên mạng khoảng 500 tờ Gia Định Báo từ năm 1866 đến 1906. Có năm thì được vài chục tờ, có năm chỉ có một tờ duy nhất. Song nhờ có những tờ báo này người nghiên cứu mới có điều kiện hình dung một cách tương đối về nội dung của tờ báo.

Sở dĩ tôi trả lời như trên có lẫn không cũng vì nguyên nhân các nhà nghiên cứu đọc được quá ít hoặc đọc chưa đầy đủ một cách tương đối các số báo để có nhận định chính xác. 

Trước năm 1975, đa số nhà nghiên cứu đều chỉ đọc được các số báo năm 1870 thời điểm ông Trương Vĩnh Ký là Chánh tổng tài, nên nhận định rằng chữ nghĩa thời ông Ký làm báo khá hoàn chỉnh! Còn sau năm 1975, các nhà nghiên cứu đọc được bộ báo 1882-1885 nên nhận định “Gia Định Báo là công báo.”

Các vị nói không sai nhưng chưa đủ! Bởi các vị giống như thầy bói mù rờ voi, rờ trúng chỗ nào thì khẳng định chỗ ấy chứ chưa có điều kiện nhìn một cách hoàn chỉnh tương đối.

Tôi có thể là một trong những người đọc tương đối đủ các tờ Gia Định Báo còn sót lại và đã được công bố công khai tại các thư viện hiện nay. 

Có thể chia Gia Định Báo ra làm hai thời kỳ. 

Thời kỳ đầu từ năm 1865 cho tới giữa năm 1881. Thời kỳ thứ Hai từ tháng Chín 1881 do ông Trương Minh Ký làm chủ bút cho đến đầu năm 1910, thời điểm tờ báo đình bản, do ông Diệp Văn Cương phụ trách.

Cũng cần nói rõ, Gia Định Báo từ mới thành lập cho tới khi đình bản đã trải qua khá nhiều người phụ trách. Hai người Pháp là ông Ernest Potteau và Bonet phụ trách nhiều thời kỳ từ 1865 đến 1890. Hai người Việt phụ trách có quyết định đàng hoàng là ông Trương Vĩnh Ký [phụ trách từ tháng Chín 1869 đến tháng Mười Hai 1871] và ông Diệp Văn Cương [chủ bút từ tháng Năm 1908 đến đầu năm 1910]. Còn một số người Việt khác tôi không tìm được văn bản bổ nhiệm nhưng qua các trang báo thì tôi chắc rằng họ là những “chủ bút” đứng sau lưng người Pháp để thực hiện nội dung tờ báo. Đó là các ông Huỳnh Tịnh Của, chủ bút từ 1865 đến 1868. Ông Trương Minh Ký, chủ bút từ năm 1881 đến 1897 và ông Nguyễn Văn Giàu, chủ bút từ năm 1897 đến 1908.

Nhìn vô những người phụ trách hoặc làm chủ bút tờ báo từ thời kỳ đầu tới khi đình bản đều là những người nổi tiếng trong thời kỳ ấy. Họ là những trí thức lớn của Nam Kỳ, là thầy giáo dạy chữ quốc ngữ, chữ nho, là thông ngôn giỏi của nhà cầm quyền, trừ ông Nguyễn Văn Giàu tôi chưa tìm được tiểu sử. 

Gia Định Báo ngay thời kỳ đầu là một “tờ báo đúng nghĩa” như ngày nay thường hiểu. Từ năm đầu tiên là 1865 cho tới 1880, tờ báo luôn có hai phần Công vụ và Thứ vụ hay Tạp vụ rất rõ ràng và tương đối bằng nhau về số trang.

Công vụ là các thông tin chính thức của nhà cầm quyền, còn thứ vụ hay tạp vụ là các loại tin tức trong vùng, cùng các loại thông báo khác. 

Ví dụ phần công vụ báo số Một ngày 15/1/1868 viết: Quan Nguyên soái định sau này: Các làng Thới An, Thới Thạnh, Thới Long, Thới Hanh, Thới Thạnh Hạ, Thới Trung, Thới Lai thuộc về Tổng Đinh Thới, thì mỗi một làng phải phạt 500 quan tiền, vì các viên chức trong làng ấy đã giúp kẻ nghịch mà làm giặc, tiền phạt ấy thì theo bực lộc các chức mà thâu.” Hoặc “Quan Nguyên soái xem ra đều trồng trái thì là đều cần kíp lắm, cho nên người lập một hội mà coi về việc ấy.” Trồng trái còn kêu là chích ngừa, nay thì biến thành “tiêm chủng” rất là…Tàu!

Thông tin phần công vụ báo số Một ngày 15/1/1868

Còn Tạp vụ thì có khá nhiều tin tức ở mỗi số báo. 

Xin đọc vài tin ở Gia Định Báo số Năm ra ngày 15/8/1865: “Tháng trước, quan Thượng thơ có truyền cho quan Bố Sai phủ Saigon đi vào trong làng Bình Hoà, Gò Vấp mà làm sổ, biên nam phụ lão ấu, biên sanh tử nghệ nghiệp, ruộng đất, biên thử một ít làng cho quan trên đặng biết, chẳng phải có ý biên mà tấn thuế thêm hay là lấy vườn lấy đất ai, mà có nhiều người nghi nan sợ hãi giấu đi, không muốn khai cho thiệt. Trong nhà có nhiều người khai ít, ruộng đất nhiều khai chừng một đôi miếng mà thôi, sợ quan lấy đất hay là có bắt người mà đem đi đâu. Lại nghe có kẻ muốn đút tiền cho làng ăn cho được khai ít vậy. Những người làm thế ấy thì đã mất tiền mà có khi lại mắc lấy tội dối quan, nào có ích gì, có làm sao mà phải làm đều dối trá làm vậy” PAULUS CỦA. 

Hoặc “Có một người Phalangsa đi quá giang qua Đồng Nai có đem theo một tên chà và. Qua vừa tới nơi, liền phát bịnh nóng rét, tính ở đó không thuốc uống, hối tên Chà và đi kiếm ghe khác quá giang trở về Saigon cho kíp. Tên Chà và chạy kiếm đạng một chiếc ghe trầu cho quá giang, hai thầy tớ đem nhau xuống đó mà về. Người Phalangsa nóng rét vùi vả trùm mền nằm trong ghe bất tỉnh nhơn sự. Ghe trầu chèo xuống đạng một ít khúc sông bèn gặp hai chiếc ghe ăn cướp chèo xốc lại níu bánh lái hòng nhãy qua làm dữ. Cả ghe ai nấy đều kinh, tên Chà và chết điếng không dám cục cựa. Lão lái ghe trầu hoảng kinh chạy dở mền kêu người Langsa. Một hồi lâu, người Langsa mới tốc mền chờ dậy chạy ra thấy hai chiếc ghe đầy những người ta, không biết đen trắng làm sao, giơ tay chỉ hai chiếc ghe ấy la một tiếng lớn (bắp vế). Ăn cướp nghe la một tiếng lớn không biết chuyện chi lật đật xô ghe ra chèo chạy mất.”

PAULUS CỦA (Gia Định Báo số Sáu tháng Chín năm 1865)

Trên báo số Một ra ngày 15/1/1866 do ông Paulus Của viết.

Cầu Thị Nghè làm đặng 18 tháng, bây giờ đã hư rồi, bộ hành phải đi đò. Cột cầu ấy bị hà ăn đứt chân. Cột sao nhiều lắm mà hà ăn cũng đặng.

Thế cầu làm bằng cây thì không tiện, nhà nước đang tính làm cầu không cột hoặc làm vách hai phía rồi bắc ván mà thôi, hoặc làm cột sắt, người ta đang nghĩ làm thứ cầu cho đặng bền chắc.”

Hay “Chiếc tàu l’Orne bỏ Suez ngày 21 tháng novembre cùng chạy tới Aden ngày 1 decembre: chiếc tàu này một ít thì sẽ tới Saigon. Tàu ấy chở người quá giang cùng đồ đạc quá nhiều, ngày 8 janvier tàu l’Orne tới Saigon, chở 800 lính lại thú cùng đổi cho lính mãn hạn

Trên đây là bản tin trong mục Tạp vụ của báo số Một ra ngày 15/1/1866

Hoặc “Năm ngoái ngoài Huế có sai 10 người thợ vào Saigon học đóng tàu khói, hoặc nhơn tiện mua một chiếc tàu khói đã đóng thành. Lúc ấy có một người lái buôn tây chịu đem các người ấy đi qua Hương Cảng. Cùng đã mua đặng một chiếc tàu khói hết 130.000 đồng bạc con cò cùng đem về Huế ngày 10 tây.

Nói chiếc tàu này mua riêng cho vua Annam.

Khi mua đặng chiếc tàu này rồi thì có một chiếc khác tới cửa Thuận An xin bán cho nhà nước.

Nhà nước chịu mua xong, chiếc tàu ấy chạy trở về Hương Cảng là ngày mùng 4 tháng 11 tây, có chở theo một ít người chức việc Annam, cho được định giá cả cùng ông bố cựu Vĩnh Long, bây giờ làm chức phó đô qua ở tại Hương Cảng. Song lúc chiếc tàu ấy chạy ngang qua Mã Cao, mắc một trận gió gần nhận chiếc tàu; thì đã phải giạt vào đất Hải Nam chỗ Ngũ Hành về phần đất Quảng Nam.

Khi ấy dưới tàu cho một người Annam lên đất mua gạo cùng tính trở về Huế song không được.

Giông bão lớn phá chiếc tàu gần chìm, túng phải chạy xuôi vào cửa Cần Giờ vào đậu tại đồn Cá Trê. Quan tổng đốc Vĩnh Long có gởi tiền gạo áo quần cho mấy người Annam ở dưới tàu ấy…”

Với hàng chục tin tức này cho thấy, Gia Định Báo ngay từ những năm đầu đã là “một tờ báo” đúng nghĩa chớ không phải là công báo.

Thậm chí, để có nhiều thông tin hơn, người phụ trách tờ báo là ông Trương Vĩnh Ký vào năm 1870 phải lên tiếng kêu gọi: “Từ rày sắp tới ta trông cậy sẽ có nhiêu chuyện cho người ta coi. Vì nhờ có các tờ chạy cho các thầy giáo tập quốc ngữ và các thầy thông ngôn các nơi trong cả sáu tỉnh mỗi tuần hay là nửa tháng thì chạy tờ về mà học lại những chuyện các nơi các tỉnh đề làm vô Gia Định Báo cho thiên hạ hay…”.

Thông báo hay lời kêu gọi này cho thấy phần tin tức của tờ báo được nhiều người từ nhiều nơi đóng góp lại. Điều này cho thấy phần tin tức của tờ báo rất đáng kể và hấp dẫn người đọc. Không chỉ có tin tức bình thường mà báo còn có những bài tường thuật chi tiết các cuộc đua ngựa ở Sài Gòn, Biên Hòa, Bến Tre, tường thuật các trận đụng độ giữa quân Pháp và quân kháng chiến ở Đồng Tháp Mười, ở Trảng Bàng, Tây Ninh…

Vì vậy, không thể gọi Gia Định Báo là “công báo” mà phải kêu đúng là báo “CÔNG QUẢN,” nghĩa là tờ báo do nhà cầm quyền quản lý, bổ nhiệm người có trách nhiệm, trả lương…song tờ báo vẫn là báo chí như thông thường. Hiện nay, trong nước ta có nhiều tờ báo công quản như thế.

Lời kêu gọi “cộng tác tin tức” của tờ báo ra ngày 24/2/1870

Song từ năm 1881 cho tới khi đình bản, tờ báo đã đổi khác hoàn toàn.

Tháng Chín năm 1881, ông Trương Minh Ký được giao làm Chủ bút tờ Gia Định Báo. Báo ra hàng tuần, số trang trồi sụt tùy tình hình chính trị đương thời. Có khi chỉ bốn trang, có khi lại nhảy lên 20 trang. Thời kỳ này, Pháp chuyển từ quân sự cầm quyền sang dân sự. Và đây cũng là lúc mà ngân sách của Nam Kỳ tương đối khá, nhiều công trình công cộng được xây dựng, trong số đó lớn nhất là đường xe lửa Saigon- Mỹ Tho được bàn bạc và thực hiện.

Ngoài các thông tin công vụ bình thường, báo đã tường thuật đầy đủ các buổi thảo luận của Hội đồng quản hạt Nam Kỳ về các vấn đề phát triển, xây dựng công trình công cộng. Thời kỳ ấy, các số báo thường có 20 trang và dành hàng chục trang để tường thuật các buổi thảo luận của Hội đồng quản hạt, một tổ chức tương tự như quốc hội nhưng chỉ được bàn các vấn đề an sinh xã hội, thuế và hoàn toàn không được bàn các vấn đề về chính trị và quân sự. Riêng việc làm đường xe lửa Saigon-Mỹ Tho được thảo luận hàng tháng liền, có những buổi họp kéo dài tới một giờ đêm mới dứt. Sau các buổi thảo luận ấy thì đường xe lửa được làm ngay trong năm. Nếu có điều kiện, tôi sẽ chép lại một số buổi thảo luận về làm đường xe lửa này trong một dịp nào đó. 

Việc tường thuật chi tiết các buổi họp của Hội đồng quản hạt kéo dài cho tới năm 1897 thì dứt. Khoảng giữa năm này ông Trương Minh Ký không còn làm nữa mà đã chuyển sang cộng tác với tờ báo tư nhân của ông Alfred Schreiner là tờ tuần báo Nam Kỳ.

Thời kỳ từ năm 1881 trở đi phải được kêu là “công báo” vì báo chỉ đăng những điều xuất phát từ nhà cầm quyền và gần như có rất ít các thông tin xã hội và đời sống. Sau khi ông Ký ra đi thì các người phụ trách sau là ông Nguyễn Văn Giàu và Diệp Văn Cương vẫn tiếp tục làm như trước không có thay đổi gì đáng kể.

Thời ông Trương Minh Ký phần thứ vụ teo tóp lại còn chừng khoảng 500 chữ trong một tờ báo khổ lớn có khi tới 20 trang. Song thời này lại tạo ra được hai thứ mà báo chí sau này phải đi theo cho tới ngày nay. Đó là có trang quảng cáo dịch vụ và đăng tiểu thuyết, văn chương, thơ phú. Và những điều mới này cho tới nay vẫn được báo chí hiện nay tiếp tục. 

Như vậy, Gia Định Báo không thuần là “công báo” cũng không thuần là “báo công quản” mà là một tờ báo chữ quốc ngữ có hai thời kỳ “quản lý.” Nếu chỉ nhận định nghiêng về một phía nào đó trong nghiên cứu lịch sử báo chí thì sẽ khiến cho đời sau hiểu lầm không đáng.

 (còn tiếp)

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/

You may also like

Verified by MonsterInsights