VƯƠNG TRUNG HIẾU
Tị
Năm 2025 là năm Ất Tị tính theo âm lịch. Nhiều người biết “Tị” là biểu tượng cho con rắn trong 12 con giáp, song trên thực tế, thuật ngữ này còn nhiều nghĩa khác như tị nạn, tị hiềm…
Tị là từ Hán Việt, có nguồn gốc từ chữ 巳 (sì, yǐ) trong Hán ngữ. Khang Hi tự điển cho biết 巳 được phát âm giống như tự (似, ni); tuy nhiên, theo Thuyết văn giải tự và Đường vận, 巳 có thiết âm là “tường lí” nên người Việt phiên là tị (巳 = t(ường) + (l)í = tị).
Cách viết tị (巳) đã từng được ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị (1895), của Huình Tịnh Paulus Của với nghĩa “chữ thứ 6 trong 12 chi”; “tuổi Tị” (Năm sinh để nhằm chữ tị); “tả tị” (Tiếng nựng con thơ, cũng là nã tị); “thượng tị” (Ngày mùng ba, tháng ba, chính là ngày tắm giặt cho được trừ ô uế, bất tường). Ở Trung Quốc, “thượng Tị” còn là ngày tảo mộ, nhân cơ hội đi chơi nên còn gọi là “Tiểu Thanh minh” hay “Cổ Thanh minh.”
Cách viết tị cũng phù hợp với chính tả hiện hành, được ghi rõ trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1988), song, theo thói quen xã hội, ngày nay chữ tị (巳) thường được viết là tỵ.
Trong Hán ngữ, tị (巳) là ký tự cổ đại, xuất hiện bằng chữ giáp cốt thời nhà Thương, có hình dạng giống con rắn, đầu hơi tròn, đuôi dài và cong. Những kiểu viết về sau cho thấy chữ tị có biến đổi, chẳng hạn như kiểu kim văn thời Tây Chu, kiểu triện thư và cuối cùng là chữ tị (巳) được viết giống như ngày nay, khởi nguồn từ lối khải thư, tiếp nối từ lệ thư. Ấy là chưa kể những chữ tượng hình khác trong Sở hệ giản bạch và Tần hệ giản độc và chữ tị (已) dị thể.
Tị còn là thuật ngữ chỉ tháng tư âm lịch (“Nông lịch tứ nguyệt” – Lịch Thư, Sử Ký của Tư Mã Thiên), tượng trưng cho “rắn-voi” (tị giả xà tượng dã); trong đó, voi là “dương nổi” còn rắn là “âm ẩn,” nghĩa là vào tháng tư âm lịch, dương khí nổi lên, âm khí bị ẩn, vạn vật đều có thể nhìn thấy và hình thành nên vật thể.
Đối với người Việt, tị là biểu tượng cho con rắn, giống như trong thiên Vận Hành, Vật thế của Vương Sung – nhà tư tưởng thời Đông Hán. Riêng người Trung Quốc cổ đại, họ còn cho rằng tị là thỉ (豕: con heo). Xin đừng nhầm lẫn chữ thỉ (豕) này với thỉ (屎: chất thải bẩn); thỉ (矢: mũi tên để bắn cung) hoặc thỉ (舐: liếm bằng lưỡi).
Ít ai ngờ rằng nghĩa gốc của chữ tị (巳) lại là… “thai nhi” (胎儿). Điều này đã được ghi trong quyển Thuyết văn thông huấn định thanh của Chu Tuấn Thanh (1788 – 1858) – một chuyên gia chú giải văn bản Trung Quốc thời nhà Thanh.
Tị còn nghĩa là sự kết thúc, sự dừng lại (Thích Thiên, Thích Danh của Lưu Hy), về sau nghĩa mở rộng thành “hậu tự,” tức người kế tục (Ngọc Thiên của Cố Dã Vương) hoặc là một kiểu cúng bái cầu tự, mong có con nối dõi (Chu Dịch. Tổn Quái).
Tị tương ứng với sao Dực (rắn lửa có cánh) trong Nhị thập bát tú; kết hợp với thiên can để đánh dấu năm, tháng, ngày và giờ (Nhĩ Nhã). Ngoài ra, Tị còn gọi là “Tị thì,” biểu thị khoảng thời gian từ 9 – 11 giờ sáng (Thủy Hử truyện. Đệ nhị thập tam hồi).
Xét về Ngũ hành, Tị tương ứng với Hỏa; còn theo thuyết Âm-Dương thì Tị là Âm; về phương hướng, Tị chỉ hướng nam – đông nam.
Năm 2025 là năm Ất Tị (thiên can Ất và địa chi Tị, tức con rắn). Ất Tị kết hợp thứ 42 trong hệ thống đánh số Can Chi, xuất hiện trước Bính Ngọ và sau Giáp Thìn.
Đời và kiếp
Trong tiếng Việt, “đời người” và “kiếp người” thường được hiểu giống nhau. Thật ra, ngoài nghĩa tương đồng, hai cụm từ này còn có một số nghĩa khác biệt.
Trong Từ điển tiếng Việt (1988) do Hoàng Phê chủ biên, đời và kiếp được định nghĩa như sau: đời là “khoảng thời gian sống của một sinh vật; cuộc sống, sự sống của con người” (tr. 371), còn kiếp là “khoảng thời gian sống của một con người, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết; đời. Ăn đời ở kiếp với nhau” hoặc là “Đời sống của con người, chết đi lại có một đời sống khác, trong một thể xác khác, trước và sau có quan hệ nhân quả với nhau, theo thuyết luân hồi của đạo Phật” (tr. 549).
Như vậy, Hoàng Phê đã cho thấy đời và kiếp giống nhau ở chỗ “khoảng thời gian sống của một sinh vật, của một con người.” Bây giờ, xét về từ nguyên ta thấy:
Chữ đời tương ứng với thế (世) trong Hán ngữ. Thế có nghĩa gốc là “khoảng thời gian 30 năm” (Luận Ngữ. Tử Lộ), rồi mở rộng thành “thế hệ” (Lễ Ký. Đại truyện); “thời đại” (Thi Kinh. Đại Nhã. Đãng); “năm tháng” (Lễ Ký. Khúc Lễ hạ) hay “một đời người” (Long xuyên biệt chí của Tô Triệt đời Tống). Thành ngữ sinh sinh thế thế (生生世世) nói về sự vĩnh cửu, vô tận, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thế còn là “thế giới, thiên hạ, xã hội” (Tả truyện. Thành công thập nhị niên). Tuy nhiên, thế có những khái niệm mà đời không có, chẳng hạn như “người thừa kế”; “thông thái”, “sản sinh”…
Về kiếp, đây là từ Hán Việt, có nguồn gốc từ chữ kiếp (劫) trong Hán ngữ, gọi đầy đủ là kiếp số (劫數), người Việt đọc ngược lại là “số kiếp.” Kiếp số còn gọi là kiếp-ba hay kiếp-bá – những từ phiên âm của kalpa (कल्प) trong Phạn ngữ.
Kiếp (kalpa) là thuật ngữ trong vũ trụ học của Ấn Độ giáo và Phật giáo. Ban đầu kiếp dùng để chỉ đơn vị thời gian vào thời Ấn Độ cổ đại, biểu thị khoảng thời gian cực kỳ dài hoặc cực ngắn. Khái niệm này được đề cập đầu tiên trong sử thi Mahabharata (महाभारतम्). Theo thuyết Luân hồi của Phật giáo, một người có nhiều kiếp (tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp). Điều này đã được giải thích rõ trong bộ Đại Trí độ luận của Bồ Tát Long Thọ.
Trong tiếng Trung Quốc và tiếng Nhật hiện đại đều có nhiều từ liên quan đến “kiếp” với nghĩa khác nhau. Kiếp có thể là kiếp nạn hay kiếp hỏa (một trong tam tai, kiếp hỏa tai sẽ đốt hết từ mặt đất cho đến cõi sơ thiền). Thành ngữ Trung Quốc có câu: “Tại kiếp nan đào” (在劫難逃), có nghĩa là “kiếp nạn khó tránh.” Cư dân mạng đã dựa vào thành ngữ này để tạo ra cụm từ “kiếp nạn thứ 82” (có nguồn gốc từ bộ phim Tây du ký lạ truyện), một cách diễn đạt hài hước về sự khó khăn, trở ngại, những sự cố gặp phải trong cuộc sống.
Tuy nhiên, theo Phật giáo, nếu “không thể thoát khỏi tai họa” thì kiếp có nghĩa là khoảng thời gian cực kỳ dài, thậm chí vô tận, chẳng hạn như “ức kiếp” (một trăm triệu kiếp); “vĩnh kiếp” (chịu đau khổ vĩnh viễn). Ví dụ như câu “Qua trăm ngàn kiếp… chẳng trái lời kinh Bụt” (Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh).Tóm lại, trong tiếng Việt, đời có một số nghĩa tương ứng với thế (世) trong Hán ngữ kể trên, song nghĩa phổ biến nhất là “cuộc sống, nhân gian, thời gian sống” (“Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi” – Kim Vân Kiều tân truyện); còn kiếp thường được hiểu là “số phận con người” (“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” – Xuân Hương di cảo) hoặc là “đời người” (“Kiếp này phụ, kiếp sau yêu” – Phan Trần truyện).
Similar articles: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/van-hoa/chu-nghia/
