Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 13-Nền giáo dục…hạn chế!

by Tim Bui
Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 13 Nền giáo dục…hạn chế!

TRẦN NHẬT VY

Sau mùa Hè là mùa các phụ huynh Việt phải “xếp hàng từ khuya” để giành một chỗ cho con vào học mẫu giáo. Đó hình ảnh dễ thấy ở xã hội ngày nay.

Xưa thì khác. Khi chữ quốc ngữ được người Pháp tìm cách phổ biến cho người Việt nhằm thực hiện chủ trương xóa bỏ chữ Nho thì việc đi học lại là một sự “sợ hãi” trong lòng các phụ huynh! Tại sao ư? Khi Pháp cố gắng hình thành một nền giáo dục chữ quốc ngữ, như một nhiệm vụ cấp bách, dù họ chỉ mới chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thì người Việt sống trong vùng bị chiếm lại có nhiều lo lắng. Năm năm sau, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cũng lọt vào tay họ dù triều Nguyễn tìm mọi cách để “chuộc” lại. Năm 1863, triều Nguyễn cử một phái đoàn sang Pháp để bàn thảo việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông, nhưng bất thành. Năm 1868, sau khi ba tỉnh miền Tây lọt vào tay Pháp, triều Nguyễn một lần nữa cử đại thần Trần Tiễn Thành vào Nam bàn thảo việc chuộc lại các vùng đất đã mất, và cũng bất thành. 

Việc ông Trần Tiễn Thành vô Saigon được đăng trên Gia Định Báo số 3 ra ngày 15/3/1868

Mặt khác, qua sự cổ động của vua Tự Đức, nghĩa sĩ ở Nam Kỳ đã nổi dậy chống Pháp ở nhiều nơi như Nguyễn Trung Trực, Trương Định, Trương Quyền, Võ Duy Dương… khiến cho lòng dân Nam Kỳ vẫn hướng về nhà Nguyễn.

Những việc này khiến dân chúng có hai sự lo sợ nên không dám cho con vào trường học học chữ quốc ngữ, thứ chữ khi ấy vẫn còn bị coi là thứ chữ “ngoại lai,” chữ của “kẻ thù,” chữ của người “Thiên Chúa giáo.” Đã vậy các trường còn do người Pháp, những người mới hôm qua còn rượt bắt những chiến sĩ, những nghĩa quân yêu nước mà bắn giết!

Do đó, dân chúng lo sợ nếu cho con đi học chữ quốc ngữ một khi Nam Kỳ trở về tay triều Nguyễn thì họ sẽ bị coi là người phản quốc, bị trả thù và bị xóm giềng nghi kỵ là “Việt gian.” Việc người Việt thù hằn thì… chỉ người Việt mới hiểu. Bởi từ lâu người Việt đã có câu “nhớ lâu, thù dai!” Đó là nỗi sợ lớn nhất. Nỗi sợ thứ hai chính là sợ “bị mất con.” Khi ấy có nhiều tin đồn rằng “Ai học chữ quốc ngữ sẽ bị đưa đi ngoại quốc.” Mà mất con thì cha mẹ nào lại không sợ! Chưa kể không biết tương lai con sẽ ra sao! Chính vì vậy mà nhiều gia đình có con buộc phải vô trường học là trường làng, trường tổng để học chữ quốc ngữ, thì ban đêm họ lại cho con học các lớp chữ Nho trong làng, xã. “Người Việt Nam trong làng xã biểu lộ sự quyến luyến của họ với hệ thống cổ truyền bởi việc gửi những trẻ em đã tham dự tại một trường nhà nước ban ngày, trải qua một phần của buổi tối để học tập chữ Hán từ các thầy giáo vẫn tiếp tục sinh sống tại các làng xã.” [Osbonne, đã dẫn]. Cho đến thập niên tám mươi của thế kỷ 19, sự miễn cưỡng của dân chúng Việt Nam tại nông thôn khi gửi con em họ đến các trường dạy chữ quốc ngữ vẫn còn dai dẳng, Osbonne ghi nhận. Ông cũng nhắc lại ý của Toàn quyền Richaud rằng “nền giáo dục như chúng ta mang đến cho người dân bản xứ không liên hệ đến bất kỳ nhu cầu nào của họ.” Sự lo sợ này không phải không có lý do, bởi từ năm 1865, Pháp đã đưa nhiều thiếu niên Việt ra ngoại quốc. Tất nhiên những thiếu niên này đều là con em của những gia đình Thiên Chúa giáo và những người Việt được Pháp “tin tưởng” như trường hợp Trần Bá Thọ con của Trần Bá Lộc, một tay Việt gian khét tiếng là tàn ác với đồng bào của mình và cũng chính là người đã bắt và xử tử nhà yêu nước Nguyễn Trung Trực, là một. Trần Trọng Kim ghi trong Việt Nam Sử Lược “Trong khi thống đốc Paul Bert xếp đặt mọi việc ở Bắc Kỳ, thì ở Trung Kỳ quân Cần Vương ở các tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải tìm cách mà đánh dẹp cho yên. Ở mạn Bình ThuậnPhú Yên thì thiếu tá De Lorme và viên công sứ Aymonier cùng với Trần Bá Lộc đem lính Tây và lính ở Nam Kỳ ra đánh dẹp. Trần Bá Lộc dùng cách dữ dội, chém giết rất nhiều, bởi vậy đất Bình Thuận không bao lâu mà yên; rồi đem quân ra dẹp đảng Văn Thân ở Phú Yên và Bình Định, bắt được cử nhân Mai Xuân ThưởngBùi ĐiềnNguyễn Đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm Bính Tuất (1886) đến tháng Sáu năm Đinh Hợi (1887), thì những tỉnh ở phía Nam đất Kinh kỳ đã dẹp yên. (trang 550). Thông thường, khi cần dẹp một cuộc khởi nghĩa, Trần Bá Lộc bắt và giết dân làng trong vùng để buộc nghĩa quân phải ra “đầu thú” rồi bị giết!

Toàn Quyền Richaud từng nói “Chúng ta lấy các trẻ em khỏi làng xã của chúng ở tuổi từ tám đến mười tuổi; chúng ta gửi chúng đến các trường hàng tổng của chúng ta, từ đó chúng ra trường sau khi học việc đánh vần một cách đầy khó nhọc ít hàng chữ từ tờ Gia Định Báo. Và Sự giáo dục các đứa trẻ này hiếm khi nào đi xa hơn thế. Chúng không thu đạt được bất kỳ khái niệm nào về đạo đức, hay về nền giáo dục đặc biệt vốn được kính trọng của người Việt. Đa số quay trở về làng sau khi đã mất một hay hai năm trong cung cách này và mang lại cho gia đình, bằng cái vẻ tự mãn và sự ngu dốt mà chúng biểu lộ, một hình ảnh đáng buồn về hệ thống giảng dạy công cộng của Pháp. Điều thường nhìn thấy xảy ra là việc mà Luro đã ghi nhận nhiều năm trước đó: các cha mẹ đã gửi con em họ trở lại các trường dạy chữ nho sau khi chúng rời các trường học của người Pháp chúng ta.”

Người Pháp khi ấy vẫn tin tưởng nhiều hơn nơi các giáo chức người Pháp tại Nam Kỳ một khi giai đoạn cai trị dân sự đã bắt đầu, và các học trò Việt Nam được gửi sang các định chế giáo dục tại Pháp và Algeria, mặc dù với số lượng ít, nhưng lưu trú lâu hơn và đã thu gặt được nhiều sự thành công hơn so với những người đã được gửi đi theo các chương trình khác thuộc giai đoạn sớm hơn.

Trong thực tế, từ năm 1865, người Pháp đã đưa một số trẻ em sang Pháp. Cho tới nay, chưa ai tìm thấy tài liệu nào nói về những em này và số phận họ ra sao! Những năm tiếp theo Pháp cũng đưa một số em đi và cũng không rõ số phận ra sao! Chỉ có một tài liệu duy nhất là 11 em được đưa đi Algeria do ông Trương Minh Ký dẫn đi vào năm 1880 thì biết rõ. Trong số này, học sinh Diệp Văn Cương sau này trở về làm thông ngôn, làm thầy giáo dạy tiếng Pháp cho vua Đồng Khánh và dạy ở trường Chasseloup Laubat. Và Nguyễn Trọng Quản, về sau là rể của ông Trương Vĩnh Ký và là người viết cuốn tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền in vào năm 1887.

Cũng cần phải nói thêm, hầu hết các trẻ em được Pháp đưa đi Pháp hoặc các thuộc địa của Pháp là con em của người Thiên Chúa giáo và những công chức mẫn cán với Pháp. Đa số sau này trở thành những công chức hoặc thầy dạy học ở các trường. Có một số học các nghề khác mà khi ấy nước Việt chưa có như chụp hình, quay phim, sửa xe và đóng tàu…

Song với người dân bình thường thì việc con em mình “bị” đưa ra ngoại quốc mà không biết số phận nó ra sao thì ai lại không sợ! 

Do đó, để có học sinh cho các trường, nhà cầm quyền Pháp ngoài việc vận động còn “bắt buộc” các làng hàng năm phải đưa các trẻ em từ 8 đến 10 tuổi vào trường học. “Trước tiên, các làng xã nhận được lệnh cung cấp học trò; một học trò cho mỗi làng nhỏ hay cỡ trung bình; hai học trò từ các làng lớn, ba học trò từ một số ít làng có dân số đông đảo một cách khác thường.” Và “Các học trò, phần lớn, được tuyển mộ và đài thọ bởi làng xã theo cùng cách đối với dân quân phòng vệ, và với phí tổn còn cao hơn thế nữa.” [Osbonne, đã dẫn].

Chính vì vậy mà chính người Pháp cũng nhận thấy “Trường quốc ngữ không có sự lôi cuốn thực sự đối với dân làng tại Nam Kỳ trong thuở ban đầu này.  Yêu cầu rằng trẻ em phải theo học các trường mới lập này đã bị lẩn tránh bởi việc gửi đi các trẻ em nghèo khó nhất tại một xã và trả một khoản đặc cấp cho cha mẹ chúng.” [Osbonne].

Để đối phó với việc “vô trường học chữ quốc ngữ” nhiều gia đình phải đem “giấu con” và người giàu có thì “mướn” người nghèo đi học dùm! Trường hợp ông Nguyễn Văn Sâm, một nhà báo nổi tiếng ở Sài Gòn thập niên 1930, em rể của đại gia xà bông Trương Văn Bền, Khâm sai đại thần Nam Kỳ, được “nghi” là từng “đi học mướn!” Ông Sâm người Sóc Trăng, tên thật là Dương Minh Sơn. Ông “lấy tên của người anh họ” để đi học, theo tài liệu của nhà báo Nguyễn Kim Lượng, và trở thành người nổi tiếng. Làm sao ông có thể “lấy tên người anh họ” để đi học nếu không được nhờ vả? Trên các tài liệu khi ghi chép tiểu sử của ông đều không biết hoặc không nói rõ chi tiết này và cũng không đề cập đến gia cảnh của cha mẹ ông. Qua nhiều tài liệu chúng tôi biết, gia đình ông rất nghèo, và ông được nhà giàu trong làng “mướn đi học” thay cho con họ tên là Nguyễn Văn Sâm. Vì học giỏi và có tài nên ông sau khi học xong Cao đẳng Công chánh ông được thầy là Lưu Văn Lang giúp đỡ rồi lấy vợ giàu có nên trở thành người nổi tiếng một thời. Nếu ông không bị ám sát vào năm 1947 thì có thể tên tuổi ông không chỉ loanh quanh nghề báo và nghề chính trị!

Với điều kiện thuở ấy, chắc hẳn không chỉ có ông Sâm mà có thể còn có rất nhiều người thành danh nhờ đi học mướn mà chúng ta chưa biết.

Cùng với các trường nhà nước là các trường học ở làng xã ít bị giám sát hơn các trường hàng tổng.  Các ngân khoản để bảo đảm những trường này hoạt động lấy từ   ngân sách của quận (arrondissement). Sự giảng dạy ở các trường làng xã bằng quốc ngữ và chữ nho (Hán tự).  Sự xung khắc của Pháp đối với chữ nho đã không biến mất, nhưng chính quyền nhìn nhận nhu cầu cần có các thông dịch viên, khi xét đến sự sử dụng tiếp tục chữ nho bởi các thành phần già cả hơn trong dân chúng.  Tuy nhiên, khi mà việc sử dụng chữ nho và số học giả cung ứng để giảng dạy chúng ngày càng giảm sút, các tàn tích của học thuật cổ truyền dần dà phai nhạt.

Hơn nữa, trình độ giảng dạy, đặc biệt là tại các trường học cấp tổng, hãy còn rất thấp.  Khi Thống Đốc Filippini báo cáo điều này trong năm 1887, ông quy trách sự kiện này cho sự thất bại của chính quyền thuộc địa trong việc đưa ra một nỗ lực quả quyết để truyền bá sự sử dụng Pháp ngữ.  Bất kể nhiều nỗ lực khác nhau, “điều phải thừa nhận rằng nền giáo dục hiếm khi tạo ra được bất kỳ sự tiến bộ nào.Chính quyền cũng nhìn nhận tính bất khả của việc cung cấp các học sinh có khả năng cho các trường cao cấp hơn tại Sàigòn mà không phải trải qua giáo dục bậc tiểu học. Xây dựng trên sự tái tổ chức vào năm 1874, các giới chức thẩm quyền đã cố gắng chuyển học sinh qua hai mức độ giáo dục trước khi chúng khởi sự các lớp học tại Sàigòn. Trình độ giáo dục tại Sài Gòn có nhiều mô tả khác nhau.  Đôi khi nó được gọi là bậc trung học, nhưng tính chất của nó là giáo dục bậc sơ học tiên tiến.  Một cách lý tưởng, một thanh niên Việt Nam sẽ gia nhập trường Cao Đẳng Collège Chasseloup-Laubat sau khi vượt qua được một trường cấp tổng và sau đó một trường ở cấp quận [arrondissement, tiếng Pháp trong nguyên bản, để chỉ đơn vị hành chính cấp quận hay huyện] trong đó các giảng khóa vừa bằng quốc ngữ lẫn tiếng Pháp đều được đặt dưới sự giám sát tổng quát của một giáo viên người Pháp.  Một khi lên được tới Sài Gòn, học sinh sẽ nhận được phần lớn sự giảng dạy bằng tiếng Pháp. [Osbonne]. Sự giảng dạy nhấn mạnh đến đạo đức vẫn còn được ngưỡng mộ, nhưng thực tế đã đặt ra các đòi hỏi mạnh hơn. Các số thống kê cung cấp về giáo dục tại thuộc địa thường không thỏa đáng, nhưng xem ra không có lý do để thắc mắc về sự sụt giảm mau lẹ số các trường học dạy Hoa ngữ vào lúc tiến đến cuối thế kỷ.

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/q-to-z/tran-nhat-vy/

Dù đã qua trường Tổng nhưng học sinh Việt vẫn đọc rất khó khăn những bài viết trên Gia Định Báo

You may also like

Verified by MonsterInsights