Giới và Vái

by Tim Bui
Giới và Vái

HAI DỐT

Về mặt hình thức, hai chữ “giới” và “vái” chả có gì liên quan tới nhau. Về âm tiết khi đọc, nói lên cũng chả dính dáng tới nhau. Thế nhưng…

Ngày nay, giới là một chữ mà hầu như người Việt ai cũng biết từ em bé bảy tuổi tới ông già 77 tuổi, người tu hành lẫn dân… nhậu!

Mọi người thường ngày đều đã nghe đến giới qua các chữ “thế giới,” “giới tính,” “biên giới,” “giới nghiêm,” “giới hạn”… qua tivi, báo chí hay các cuộc trao đổi với nhau; người tu hành thì nghe đến “giới luật,” “trai giới,” “phạm giới”… Dân ghiền Tây Du Ký thì không thể không biết, không nghe tới anh chàng Trư Bát Giới có cái mặt heo, mê ăn, mê ngủ và mê… gái! Nói chung chữ “giới” khá quen thuộc với mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội.

Vậy mà…

Tra lại các tự điển xưa thì… Tự điển Annam-Latinh của Giám mục Bá Đa Lộc viết năm 1772-1773 được linh mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên giản lược lại và nhà xuất bản Trẻ in năm 1999 tại Sài Gòn, thì “giới” chỉ có “một nghĩa” là “chiếu sáng!” Nói giản lược ở đây nghĩa là ông Hồng Nhuệ đã cắt bỏ khá nhiều phần chữ latinh lẫn chữ nho, chữ nôm trong nguyên bản. Tôi có được nguyên bản của quyển tự điển này nên biết được, số lượng trang của bản gốc dày gấp ba lần số 576 trang in bản ông Hồng Nhuệ! Song đó là một chuyện sẽ bàn vào một dịp khác.

Còn ông Huỳnh Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quấc âm tự vị in năm 1895-1896 cũng định nghĩa “giới” là “chiếu sáng, sáng ngời khoe.” Tỉ dụ như “khéo giới” nghĩa là “khéo khoe khoang” hay “đem ra mà giới” có nghĩa là “khoe trẻ, làm cho người ta ham muốn.” Ông Của cũng xác định chữ “giới” là chữ thuần Việt. Chữ giới trong tự điển ông Của nay nằm trong chữ “giới thiệu” có nghĩa là làm cho mọi người biết. Theo cách định nghĩa này thì “giới” ngày xưa có thể hiểu trong cách ngày nay là “giới thiệu!” Và cũng chỉ có vậy, hoàn toàn không liên quan hay giống với nghĩa chữ giới theo cách hiểu ngày nay, trừ mặt chữ.

Vậy thì chữ giới theo cách hiểu và viết hiện nay từ đâu mà có?

Xin thưa với quý bạn, ngày xưa, người ta không xài chữ “giới” như chúng ta ngày nay mà họ xài chữ “giái.” Giái là chữ nho rặt ròng. Các tự điển xưa định nghĩa khá nhiều về “giái.” Ông Bá Đa Lộc ghi nhận “giái” ở trang 168-169 trong tự vị Annam-Latinh có các nghĩa sau:

  • Lời răn dạy
  • Chỉ dạy, ăn chay
  • Luật của nhà Phật
  • Nhà sư 
  • Vũ khí
  • Ranh giới
  • Miền, vũ trụ
  • Rất lớn

Còn ông Huỳnh Tịnh Paulus Của thì định nghĩa trong Đại Nam quấc âm tự vị trang 861, bản in của nhà xuất bản Trẻ năm 1998, về chữ “giái” như sau:

  • Răn dạy, điều răn, khuyên
  • Kiêng cữ
  • Lo sợ
  • Ăn chay
  • Cà rá đeo ngón tay [còn kêu là nhẫn trong tiếng Anh là ring]
  • Binh khí
  • Bờ cõi
  • Ranh
  • Thế gian
  • Rau kinh giới, cỏ rác
  • Giúp
  • Ngăn chặn
  • Một loại côn trùng

Rất rất nhiều nghĩa của chữ “giái” đã được nêu ra. Và giái được xài rộng rãi trong cuộc sống cũng như trong sách vở. Các sách báo quốc ngữ xưa, người ta thường viết “giái” chứ không viết “giới” như hiện nay. Bởi vậy đã từng có người thắc mắc “Tại sao sách xưa viết là Trư Bát Giái nay lại biến thành Trư Bát Giới?”. 

Theo Hai tui, qua đọc được nhiều sách báo quốc ngữ xưa thì khám phá ra rằng, từ khoảng cuối thập niên 1920 của thế kỷ 20, chữ giái bắt đầu biến mất trong các văn bản, sách vở nói chung và chữ giới xuất hiện thường xuyên hơn. Nguyên nhân thì chưa rõ lắm, song có thể “giái” biến thành tử ngữ vì “trùng âm” với chữ có nghĩa là “bộ phận sinh dục đàn ông” chăng? Hay là có những người vì không đọc được giái nên chuyển thành giới? Tất nhiên những người này phải là người có quyền chức, có sức ảnh hưởng mạnh tới mức nhiều người phải “làm theo!”

Do đó mà giới đã giành chỗ của giái!

Cũng có thêm câu hỏi là giái đã biến mất thì có liên quan gì tới chữ vái?

Xin thưa rằng, dù không còn trên văn bản nhưng chữ giái không biến mất hoàn toàn. Trong khẩu âm của người phương Nam, giái và vái nghe từa tựa như nhau. Vị nào là người Nam hẳn biết điều đó. Trong phát âm của người Nam khó phân biệt được các dấu “hỏi,” “ngả” và các âm “d”, “v” và “gi”. Bởi vậy người xưa viết “cữa” hay “bỡi” là chuyện bình thường! Ngay ngày nay, khi nghe một nông dân ở miền Tây nói “Đi bằng vỏ lãi!” thì nhiều người không biết chữ “vỏ” của ông nói là “dõ”, “vỏ” hay “giỏ”. Mà nói chữ gì đi nữa thì cũng chỉ để nói tới một chiếc ghe, chiếc đò chạy dưới sông thôi! Muốn tìm hiểu kỹ thì… tra tự điển. Bởi ngày nay ta có rất nhiều sách vở viết về văn phạm, dễ tra cứu ngay cả trên điện thoại di động, còn ngày xưa thì… hồn ai nấy giữ!

Cũng vì vậy mà “giái,” “dái” và “vái” nghe giông giống nhau, nghe nói thì rất dễ… lộn! Trong các từ điển xưa đã xác định giái cũng có nghĩa liên quan tới Phật pháp, liên quan tới sự cầu xin gởi tới các đấng linh thiêng cao xa. Chính vì vậy mà giái được các nhà chuyên môn chuyển thành vái cho nó lành!

Vì vậy mà chữ “giái” chỉ còn tồn tại qua tiếng nói của người Việt ở miền Nam là “vái” và tùy ngữ cảnh mà hiểu. 

Có một chuyện vui liên quan đến cách phát âm hai chữ này.

Một bà sui từ miền ngoài vô thăm anh sui ở Sài Gòn. Thấy ông sui cạo đầu trọc lóc, bà mới hỏi “Có chuyện gì dữ thần mà anh cạo đầu?”. Đối với người miền Nam, cạo đầu là một vấn đề rất nghiêm trọng. Tự nhiên mà cạo đầu là không bình thường. Xưa, hình phạt nặng đối với phụ nữ là “cạo đầu bôi vôi,” thậm chí có người còn bị hăm “cạo đầu trét dầu hắc.” Thường một người chỉ cạo đầu khi quy y nhà Phật hoặc cúng vái, khấn nguyện ơn trên gì đó. Một người còn cha mẹ tự nhiên cạo đầu ắt phải có chuyện gì đó, nếu không chắc chắn bị cha mẹ “làm cho một trận” liền! Vì vậy, thấy ông sui đầu trọc lóc nên bà sui mới thắc mắc. Ông sui mới than “Tại tui lỡ “vái” rồi chị ơi!”. Bà sui la lên “Trời ơi! Lở “dái” thì anh phải bôi thuốc chớ sao lại cạo đầu?”. Bởi chữ “giái” và “vái” phát âm gần giống nhau nên bà sui hiểu lầm ra chữ “dái.” 

Do phát âm gần giống nhau nên “giái” lần hồi biến mất nhường chỗ cho “giới.” Và “giái” hầu như chỉ còn lại với âm “vái.” Ở miền Bắc hình như khi cúng bái, mong ước gửi tới “cõi trên” người ta thường nói là “khấn” chớ không nói “vái!”

Tui dân Nam Kỳ nên không rõ lắm cách nói ngoài Bắc. Xin các vị thông thái chỉ dạy giúp. Xin cám ơn trước!


_________________
Đi bộ không mang điện thoại

Tôi bắt đầu thử “sống chậm” bằng cách đi bộ không mang theo điện thoại với một lo lắng rất… hiện đại: Nếu có chuyện gấp thì sao?

Câu hỏi ấy khiến tôi nhận ra mình đã quen xem chiếc điện thoại như một cái phao an toàn, phải có mới yên tâm.

Ngày đầu tiên ra khỏi nhà với hai tay trống. Tôi có cảm giác như mình quên chìa khóa, dù biết rõ nó nằm trong túi. Tôi đi chậm hơn bình thường, vì không còn việc vừa đi vừa nhìn màn hình. Con đường quen thuộc bỗng dài hơn, và cảnh vật cũng rõ hơn.

Không có điện thoại, tôi nghe được những âm thanh mình đã bỏ lỡ từ lâu: tiếng chim hót, giày chạm vỉa hè, lá khô bị gió kéo đi… Tôi còn nhận ra mình hay cúi đầu, không phải vì mệt, mà vì quen nhìn xuống màn hình.

Đến ngày thứ ba, nỗi lo “lỡ có chuyện gì” dịu dần. Thế giới không sụp đổ. Không ai tìm tôi gấp trong mười lăm phút ấy. Và nếu có, tôi vẫn có thể thoải mái trả lời khi về nhà, không phải mọi việc đều cần giải quyết tức thì.

Ngày thứ năm, tôi bắt đầu mong đến giờ đi bộ, mong khoảng thời gian hiếm hoi không bị kéo đi, bởi tin nhắn, thông báo, tin tức, và những cú gọi “spam.” Tôi đi mà không phải lo đối phó với… thế giới.

Vắng chiếc điện thoại, tôi có mặt trọn vẹn hơn trong từng bước chân. Tôi vẫn đi trên con đường cũ, chỉ khác là lần này thực sự biết mình đang tận hưởng những giây phút ấy.Thế thôi, mà đủ!\

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/a-to-h/hai-dot/

You may also like

Verified by MonsterInsights