Ngôn ngữ Nam Kỳ ngộ quá!

by Tim Bui
Ngôn ngữ Nam Kỳ ngộ quá!

BẮC KỲ DI CƯ

“Chít mẹ mầy rồi, Chín ơi! Má mầy dìa!”, “Mèng ơi! Cô Năm hôm rầy điệu rơi điệu rụng, chắc là cắn câu rùi!”, “Thôi đi, cha nội, dóc tổ, bà vật chít tươi!”…

Mấy câu này, ngày nào tui cũng nghe đầy tai, từ hồi nẫm mới xách guốc vô Nam năm 54. Mẹ tui thuê nhà ở Khánh Hội, nhà sàn dựng trên lớp sình ngoài sông tràn vô, khi sáng thì nước rút đi, mùi hôi của phân người, phân chó, xác chuột chết xông lên nghẹt mũi. Chiều đến nước sông dâng lên thì bớt hôi, nhưng chuột cống chạy nước leo lên sàn nhà, ướt nhẹp. Có bữa, con chuột to bằng cái bắp tay leo vào cái trạn để đồ ăn của nhà tui, lòi cái đuôi ra ngoài, ngo ngoe, chị tui chụp con dao làm bếp, chặt “bụp” một cái, cái đuôi rớt xuống, nhưng con chuột không chạy, để khúc đuôi còn lại vẩy vẩy mấy giọt máu, trông ghê rợn.

Hồi đó, Sáu tui mới có mười tuổi, đang học lớp Nhì thì di cư. Vô Nam, ông thầy cho tui vào lớp nhất, vì lớp nhì không có đủ học trò, bỏ luôn. Ông thầy Nam Kỳ này kỳ thị dân “Bắc Kỳ ăn cá rô cây” dữ lắm, nên cứ kiếm cớ uýnh tui hoài luôn. Khi tui làm bài chưa xong, thì ông đến, cầm thước gõ vào đầu tui: “Thằng nầy l..ư…ời… quá!” thay cho chữ “làm biếng.” Môt hôm, ổng uýnh tui mê người vì ổng đọc bài toán: “Cô tôi có mười đồng, cho vay bốn đồng năm cắc, hỏi còn lại mấy đồng?” Tui làm bài xong, nộp cho ổng, tưởng ngon, ai dè ổng quất tui ngất ngư. Ổng gầm lên: “Thằng Bắc Kỳ nầy diết bậy quá! Nó diết là cô tôi cho “giai” bốn đồng năm cắc… Tui đau quá, thì rõ ràng là ổng đọc “cho giai” mà. Sau này mới biết là “cho vay” mà ổng đọc là “cho giai!” Rồi cứ thế mà ổng kiếm cớ uýnh tui hoài. Ổng bắt tui đứng úp mặt vào tường rồi dùng cây roi dài hơn thước quất vào mông tui, tui mặc quần xà lỏn đi học, mỏng te, nên cú nào cú nấy nhảy người lên. Bị đòn đau quá, mà chưa uất bằng mấy thằng Nam Kỳ cùng lớp, chúng nó thấy tui bị uýnh, thì vỗ tay um sùm: “Mịa, thằng Tây Lai bị đòn! Thằng Tây Lai bị đòn!” (Hồi đó, tui có làn da trắng bóc, mũi cao, mắt nâu, tóc hơi nâu, đi đâu cũng bị bọn con nít chọc quê là Tây Lai!). Riết rồi tui nghĩ ra cái mánh: lấy cuốn vở lót vào mông, rồi tỉnh bơ đứng chịu đòn. Bữa hổm, xui là ông thầy nghi nghi, mà tui lại ngu quá, hổng biết đóng kịch, nên khi ổng thấy tui không có nhảy nhổm như mọi lần, ổng đến rờ mông tui, thấy cuốn vở lót, ổng nổi cơn thịnh nộ, bắt tui nằm dài trên bàn, úp mặt xuống, rồi ổng quất tui túi bụi, đau quá, tui lết về nhà.

Mẹ tui thấy tui bị đòn đau quá, thì tức, xách tui tới trường, chỉ vào mặt ông thầy mà quát: “Ông là cái thớ gì mà đánh con tôi như thế này hả? Tôi vặt râu ông cho coi.” Nói xong, bà tiến đến, hù ông thầy, ổng sợ, rút ra cửa sau, biến. Thế là tui không được đi học nữa, ở nhà đi theo mấy thằng trong xóm Khánh Hội, bày ra đánh lộn, chơi ú tìm, thi thảy dây thun, thẩy dép, dép thằng này trúng vào ô, thì ăn mấy sợi thun.

Từ đó, tui biến thành Nam Kỳ quốc luôn. Điều tui khoái là mỗi sáng, mẹ tui cho tui một đồng mua xôi bắp ăn. Bà bán hàng nói ngọt như mía hấp: “Cưng ăn chi, dì múc cho!” Mới đầu tui tưởng bả cưng mình tui, ai dè bả “cưng” tuốt luốt, cứ đến đứng gần bả thì ai cũng “cưng!” Một chuyện tức cười nhất là buổi tối nào đó, sắp sửa đi ngủ, thì nghe tiếng rao: “Ai…i… vật lộn hôn….?” Tui giật áo mẹ hỏi: “Mẹ, sao cái bà kia lại đi rủ người ta vật lộn?”

Mẹ tôi cười: “Đó là bà bán hột vịt lộn. Không phải vật lộn!” Tui chưng hửng.

Ngôn ngữ Nam Kỳ thiệt lạ à nhe. Nhà tui ở gần con rạch nối ra bờ sông. Ngay “bìa” rạch, có cái cầu tiêu cá! Một hàng cầu tiêu được dựng ngay giữa rạch.  Lối lên nhà cầu là một cái cầu gỗ cong cong, có hai lối đi lên và đi xuống.

Gái trai trong xóm cứ đưa nhau ra đó mà tình tự, vui lắm, nhứt là buổi tối, sáng trăng, cô cậu đứng ở đầu cầu, nói chuyện tình tứ. “Giỏi dữ hôn! Giờ này mới ra. Tui chờ đứt hơi rùi đó!” Đáp lại: “Thì tui cũng có cố tình câu đâu đâu! Má tui ghìm tui trong bếp! Tui phải trốn bả! May mà bả hổng thấy, nếu bả thấy, bả đập tui lỗ đầu luôn!” Mấy cậu thanh niên, muốn tán gái ở bên bìa cái dẫy cầu tiêu cá này, thì ngâm vọng cổ: “Lệnh bà ơi, thà là tui thác, tui thác tui đầu thai kiếp khác, làm con mỏ nhác, gặm nát trái tim của lệnh bà… tưng tưng từng tưng, tứng tưng tưng từng tưng.” Giọng ca ngọt như mía hấp của chàng trai được phụ họa bằng những tiếng đập nước “oành oạch” của lũ cá tranh nhau nhảy lên, đớp của rơi, nghe thiệt mùi trong tiếng cười thích thú của mấy cô thiếu nữ đang kiếm chồng.

Đi học trường người Nam, Sáu tui học được nhiều tiếng Nam hết sẩy: “Về” thì đọc là “dìa,” “quả cam” thì nói là “trái cam,” gọi mấy người sồn sồn bằng “thằng chả,” thấy ông nào mê gái, đặt tên là “thằng chả dê gái,” khi nhấm nhẳng với mấy ông trung niên vui tính: “Cha già dịch!” Mắng chửi ai thì nói: “Thằng ông nội này!”, “Bà nội mày” nghĩa là chửi tam đại người ta luôn. Khi không thích đùa nữa: “Thôi à nhe! Tui hổng giỡn nữa đâu! Giỡn nữa, tui đục cho chít mẹ luôn!”

Hồi đó, người Nam phát âm chữ “r” rất nặng: “Rờ” kéo dài, sau này bỏ (trong khi miền Bắc lại kẹt việc phát âm chữ “chai lọ” với “trai trẻ,” cái nào cũng “ch” hết.). Những chữ mắng chửi như “Mồ tổ mày!” được sử dụng hoài. Đặc biệt là tiếng chửi tục (Đ.M) nghe nặng hơn tiếng Bắc kỳ. Về những chữ cuối câu, người Nam thường hay thêm chữ “à nha” hay “à nhe!’

Chuyện đi ăn ngoài được gọi là “ăn hàng,” “ăn đồ” (tiếng này, mấy bà Bắc Kỳ ớn lắm, vì theo Bắc Kỳ 54, chữ “đồ” được hiểu nghĩa xấu (Đẻ con khôn, mát đồ rười rượi. Đẻ con dại, thảm hại cái đồ!). Người Nam sử dụng nhiều tiếng nghe lạ tai như “đồ bá xàm, bá láp, xạo ke, bành ki, banh ta lông, hú hồn hú día…”

Chỉ người đẹp trai thì gọi là “bảnh”: “Anh bảnh dữ ha!”, chỉ người phụ nữ dữ dằn, thì gọi “Bà chằng, bà chằng lửa!”, gặp anh chàng dê gái: “Coi chừng thằng chả ba lăm đó, mầy ơi!”. Nếu thấy chuyện gì không xong, mà muốn cho qua: “Bỏ đi, Tám!”. Không thích tay nào nói nhiều mà không đi đến đâu: “Thằng cà dựt!”, còn tay đi lang thang, không có chuyện làm: “Mầy cà nhỏng dừa chứ con!”. Chê bai người gầy: “Con nhỏ đó cà tong, cà teo, ai mà rước!”. Ngược lại, khi thấy mấy cô có phần trên to lớn: “Nhỏ này có dú chà bá, thấy ớn!”

Mắng mấy thằng thanh niên, con nít quậy phá xóm làng: “Đồ cô hồn, các đảng.” Còn với mấy cô thiếu nữ hung hăng: “Con ngựa này chằng ăn, trăn cuốn! Suốt ngày tứ sắc! Thằng chồng nó dìa, nó quất cho vài hèo, là chạy tét đít!” Một ông chồng thợ may, thấy vợ suốt ngày nằm ngủ, quát vợ: “Mầy nằm chình ình như con heo nái, không lo làm gì hết trơn hết trọi! Dô trỏng, nấu cho tau cục xíu quách, tau nhậu với bạn! Lẹ lên, không tau lại quất cho mầy một chập, kiêu má mầy lại cứu!”

Ở khu Khánh Hội này tức cười lắm, dân lao động không à. Vợ chồng uýnh nhau tối ngày. Chồng dầm đầu vợ xuống lu nước, gào hét: “Đồ con đĩ ngựa! Mầy nướng hết tiền tao để dành đi nhậu rồi!” Cô vợ ục ục một lát rồi cũng gào lên: “Thằng ông nội mày đó! Suốt ngày nhậu nhậu…” Nói chưa dứt câu, anh chồng lại túm tóc vợ dìm xuống nước. Sáu tui nín thở, sợ cô vợ chết. Nhưng rồi đâu cũng vào đó, chửi nhau, uýnh nhau cho đã rồi tối lại làm lành. Hai vợ chồng lại ngồi xệp trên sàn gỗ, cụng ly cạch cạch. Chồng uống hai, vợ cũng hai. Tắt đèn, đi ngủ, hàng xóm lại nghe tiếng huỳnh huỵch vật lộn trong phòng. Khu lao động này, nhà vách gỗ, mà lại không khít, nên làm cái gì trong nhà cũng nghe thấy hết. Tụi con nít mất dạy, cứ đứng khom người dòm qua lỗ khóa rồi cười hăng hắc.

Sáng hôm sau, thấy cô vợ ra ngoài cửa chải tóc, mấy thằng con nít ghé mồm vô chọc ghẹo: “Đêm qua, tụi tui thấy hết rồi, cô Ba ui!” Cô vợ nhấm nhẳng: “Đồ dô diên! Tụi bay không dọt lẹ, ổng thấy, ổng túm đầu mày thì coi bộ, má tụi bay để tang đó!” Thằng nhóc gật gù: “Ừa, há! Chú Ba dễ sợ quá! Mà tui hổng ngán đâu! Ba tui là dân chơi Cầu Ba Cẳng, có chiện gì xảy ra cho tui, ổng quất cho chú Ba một hèo thấy ông bà, ông vải luôn!”

Cô Ba mỉm cười, khinh khỉnh: “Dễ sợ quá! Bây ơi! Tao sợ quá, rụng mất mấy sợi tóc nè!” rồi đột nhiên, đổi giọng: “Đồ lưu manh, ba trợn. Mày không dọt lẹ, tao cho mày lỗ mũi ăn trầu, cái đầu đổ máu! Bà vật mày nè!” Nói xong cô Ba đứng phắt dậy, kiếm cây củi dựng ở đầu nhà, mấy thằng nhãi ranh chạy lẹ, vừa chạy vừa cười hinh hích. 

Những hôm trời mưa, cô Ba ngồi ngoài cửa, ngó mông ra ngoài, than thở: “Mưa chi mà mưa thúi trời, thúi đất vậy cà? Hồi nào tới giờ, chưa thấy mưa nào dai dẳng như vầy, Trời!” Bà hàng xóm cũng góp lời: “Tui rầu thúi ruột, sáng giờ chưa bán được món nào!”

Ông Tư ở sát cạnh, rề rà điếu thuốc: “Thôi, sức mấy mà buồn! Trời sinh, trời dưỡng. Hơi đâu mà lo, tới đâu hay tới đó, cô Ba.”

Thiệt là đúng! Tới đâu hay tới đó. Sáu tui bây giờ đã già, nhìn lại đời mình thấy thiệt là “người tính không bằng trời tính.” Ngôn ngữ Nam Kỳ đặc biệt đó giờ này cũng chan hòa với tiếng Bắc Kỳ di cư, ngược lại dân di cư năm nào cũng nói tiếng Nam như gió, trong đó có Sáu tui. 
Bắc Kỳ Di Cư
Tháng 11, 2025

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/a-to-h/bac-ky-di-cu/

You may also like

Verified by MonsterInsights