LÝ THÀNH PHƯƠNG
Năm 1402, thất bại trong chiến tranh với nhà Hồ, vua Chiêm Việt là Ba Đích Lại phải dâng đất Chiêm Động và Cổ Lũy cho nhà Hồ để được yên thân. Hai vùng đất này tiếp giáp với lãnh thổ phía Nam đang có của Việt Nam dưới thời nhà Trần là Thừa Thiên, Huế. Vùng đất này sau này được người Việt đặt tên lại là Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Căn cứ theo sử Việt: Mùa Xuân, tháng Hai (1403), Hồ Hán Thương đem hàng ngàn người từ Thanh Hóa, những người không có ruộng mà có của dời đến vùng đất Thăng Hoa Tư Nghĩa (Quảng Nam – Quảng Ngãi), biên chế thành quân ngũ. Quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện phải chia đất cho họ ở. Người ở châu nào thì thích hai chữ tên châu ấy vào hai cánh tay để làm dấu hiệu. Đến năm sau đưa vợ con đi theo, “giữa đường, bị bão chết đuối, dân phần nhiều ta oán” và “Hán Thương mộ dân nộp nhiều trâu để cấp cho dân mới dời đến Thăng Hoa, người nộp được ban tước.” Các sự kiện này cho thấy quyết tâm của nhà Hồ trong việc quản lý và cai trị vùng đất mới.
Nhà Hồ không xua đuổi người Chăm (Chiêm Thành) bản địa, mà ra một chính sách: “Người Chăm nào đi thì cho đi. Người ở lại thì bổ làm quan.” Việc người Chăm ở lại làm quan cai trị, chiêu dụ dân Chăm ở lại là một chi tiết cho thấy người Chăm ở lại là chính và họ chiếm tuyệt đại đa số, người Việt vào là “ở lẫn” với người Chăm, thuận theo phong tục người Chăm, chịu sự cai trị của người Chăm là chính.
Điều đó có nghĩa lúc ấy, ở vùng đất thuộc Quảng Nam – Đà Nẵng ngày nay, nhiều tộc họ người Việt đã định cư và ở bên cạnh người Chăm một cách thân thiết, mối quan hệ thông gia trai Chăm lấy vợ Việt và trai Việt lấy vợ Chăm là chuyện khá bình thường lúc ấy.
Giọng Quảng Nam – Đà Nẵng
Cũng như người Việt, Chiêm Thành là một quốc gia đa chủng tộc mà trong đó hai bộ tộc chiếm đa số là bộ tộc Cau (có lẽ gốc Indo) và bộ tộc Dừa (có lẽ từ Mã Lai di dân đến).
Bộ tộc Cau sinh sống tập trung vùng Quảng Nam – Quảng Ngãi. Trong ngôn ngữ của họ, họ không có những chữ ghép nguyên âm “a” với một âm khác, chẳng hạn “y.” Sau này khi hội nhập vào xã hội Việt, họ có vấn đề phát âm tiếng Việt. Hãy nghe một người Quảng Nam nói câu sau đây: “Máy bay nó bay trên cao, nó nổ nghe đau đầu.”
“Má ba nó ba tranh cao, nó nổ nghe đa đàu.”
Quảng Nam ngày nay
Nằm ở giữa miền Trung Việt Nam, phía bắc Quảng Nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế và thành phố Đà Nẵng, phía Tây giáp nước Lào, phía Nam giáp Quảng Ngãi, phía Đông giáp biển Đông, ngoài khơi có đảo Cù Lao Chàm. Quảng Nam, “vùng đất địa linh nhân kiệt”, thiên nhiên đã ưu đãi và hào phóng dành cho nơi đây một địa thế thuận lợi với những ngọn núi cao: núi Lum Heo cao 2.045m, núi Tion cao 2.032m, núi Gole – Lang cao 1.855m (huyện Phước Sơn). Các con sông lớn đều chảy từ dãy Trường Sơn ra biển Đông: sông Vu Gia, sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ. Đường bờ biển kéo dài từ Điện Ngọc đến giáp vịnh Dung Quất hoang sơ và sạch đẹp cùng với Hồ Phú Ninh, thủy điện Duy Sơn, khu rừng nguyên sinh phía Tây Quảng Nam, sông Trường Giang và xứ đảo Cù Lao Chàm là những điểm du lịch sinh thái lý tưởng; ngày nay trở thành điểm dừng chân của bao du khách.

Hai di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận, phố cổ Hội An và khu di tích Mỹ Sơn với những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhân loại. Khu di tích Mỹ Sơn là cả một quần thể kiến trúc độc đáo của những ngôi đền tháp uy nghiêm, hùng tráng lưu dấu một thời huy hoàng của các vị vua Chăm. Có thể nói, đền tháp Mỹ Sơn là một hình ảnh điển hình của lịch sử kiến trúc cổ Chămpa. Cho đến nay, qua rất nhiều nghiên cứu của các chuyên gia trong và ngoài nước, kỹ thuật nung gạch, kỹ thuật xây dựng đền tháp Chàm vẫn còn là một ẩn số. Điều này góp phần tăng thêm vẻ huyền bí cho những ngôi tháp cổ Mỹ Sơn khi du khách đến thăm.
Đô thị cổ Hội An – nơi “hội thủy, hội nhân, và hội tụ văn hóa,” nơi tụ cư, hỗ cư và hợp cư của nhiều sắc thái văn hóa của người Việt, người Hoa, người Nhật Bản và người châu Âu… từ thế kỷ thứ 16. Hội An là một trong số rất ít những đô thị được bảo tồn tương đối nguyên vẹn với một tổng thể kiến trúc phong phú, đa dạng.
Văn hoá ẩm thực với mì Quảng, cao lầu Hội An, bò tái Cầu Mống, bánh tráng cuốn thịt heo, giò ốc, ốc vú nàng, bánh vạc, bánh bao, bánh tổ… đã làm nên nét riêng của vùng đất này. Các món ăn đất Quảng đi vào đời sống, vào câu ca dao dân ca, vào tâm linh – tâm hồn người Quảng Nam. Những món ăn từ dân dã đến cầu kỳ mà từ cách ăn đến cách chế biến cũng như tính cách người Quảng: cần kiệm, dè sẻn, mà lại phóng khoáng, vui tươi, mộc mạc mà đậm chất. Từ con cá nục cuốn bánh tráng, rau muống chấm nước mắm “gin” (nguyên chất), cái bánh bèo con con, đến món mì Quảng sợi vàng óng ánh, con bê thui bên trong nhét lá ổi, lá sả thơm phức. Mì Quảng bây giờ đã là món ngon thân quen của người Việt ở nhiều nơi, không thua gì phở Bắc, bún bò Huế, hủ tiếu Mỹ Tho…
Nói tới vùng văn hóa Quảng Nam thì cũng phải nhắc tới kho tàng văn nghệ dân gian của nó với vè Quảng, hò đi cấy, hò xay lúa, hò tát nước, hò giã gạo, hò giã vôi, hò đạp xe nước, hò khoan, hò ba lý, hát bả trạo, hát nhân ngãi, hô bài chòi… với thổ ngữ và cái giọng Quảng chắc nịch, đậm đà :
Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra
Bậu ra cho khỏi tay qua
Cái xương bậu nát cái da bậu mòn !
Quảng Nam hay cãi – Quảng Ngãi đôi co
Lúc ấy người Việt, trong xã hội gia đình, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc theo chế độ phụ hệ, trong khi đó người Chăm thì theo chế độ mẫu hệ. Điều đó có nghĩa là, trong tâm lý người đàn bà Chăm, họ có thể ăn nằm với nhiều người đàn ông khác nhau. Vì vậy, một người đàn ông gốc Việt, lấy một người vợ gốc Chăm, không thể tránh khỏi những mâu thuẫn trong quan niệm chung thủy. Việc này ắt phải dẫn đến những cuộc cãi vã thường xuyên trong sinh hoạt gia đình. Thử hỏi, thế hệ của những đứa con do họ sinh ra, hàng ngày và “có thể là hàng đêm” nghe cha mẹ “đấu khẩu” với nhau như vậy, vô hình chung đã giáo dục cho chúng “kỹ năng cãi cọ.”
Cuộc di dân và định cư của người Việt chỉ kéo dài được năm năm từ năm 1403 – 1407. Khi nhà Hồ thất bại trước sự xâm lược của nhà Minh – Trung Quốc, vương quốc Chiêm Thành nổi dậy chiếm lại vùng Quảng Nam – Quảng Ngãi, nhiều di dân Việt phải tản cư ra phía Bắc, bỏ lại ruộng đất mới vừa khai phá của mình. Hai mươi năm sau, khi Lê Lợi đánh bại quân thống trị nhà Minh, nhà Lê lại tái chiếm vùng này từ tay vương quốc Chiêm Thành, di dân Việt lại một lần nữa trở về để khai phá vùng đất mới. Những mâu thuẫn về chủ quyền đất đai giữa người Việt và người Chăm đã gây ra không ít những “tranh cãi” triền miên trong làng xóm.
Lại nữa, người Chăm lúc đó dưới ảnh ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, theo đạo Bà La Môn và Phật giáo tiểu thừa. Đạo Bà La Môn thờ bò. Chuyện thờ con bò cũng gây ra nhiều “chỉ trích” trong sinh hoạt hàng ngày từ những người di dân Việt, mặc dù là thiểu số, nhưng là người của dân tộc thống trị.
Những mâu thuẫn trong gia đình, chòm xóm, và xã hội diễn ra liên tục trong mấy chục năm đó có lẽ đã hình thành cho người Quảng Nam – Quảng Ngãi một bản chất lúc nào cũng sẵn sàng lớn tiếng để “bảo vệ quan điểm của mình.”
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/i-to-p/ly-thanh-phuong/
