Văn chương cổ điển

by Tim Bui
Văn chương cổ điển

Lý Thành Phương

Như trong bài Văn học Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc có nói chữ Nho là thứ chữ dùng trong việc học tập trong thời kỳ Bắc thuộc và sau này là thi cử trong thời kỳ tự chủ với nội dung chủ yếu của học tập là “Tứ thư – Ngũ kinh.”

Xin nhắc lại chữ Nho là chữ Hán hay Hán tự hay còn gọi là Văn tự được lưu hành ở Trung Nguyên từ những triều đại đầu tiên ở Trung Nguyên vào hơn bốn ngàn năm trước, được mở rộng đến toàn cõi Đế quốc Trung Hoa, và tiếp tục sử dụng ở Trung Quốc cho đến bây giờ.

Người Việt, trước khi học đến Tứ thư, Ngũ kinh, thì người học chữ Nho phải học qua các sách giáo khoa thông thường để có được cái học căn bản mà đọc các sách kia. Bài viết này sẽ điểm qua các sách ấy, trước khi nói đến các kinh truyện viết trong Tứ thư, Ngũ kinh.

Mục đích và phương pháp học chữ Nho

Trước hết nên nhận rằng mục đích của việc học chữ Nho ngày xưa không những là để thông hiểu văn tự mà trước hết là học cương thường đại nghĩa (luân lý và đạo đức). Khuynh hướng này được thể hiện rõ qua phương châm” “Tiên học lễ, hậu học văn.”

Bởi cái mục đích luân lý này, nên cách dạy không tạo cho học sinh khả năng ứng phó mà chú trọng phần ghi nhớ không có tính cách khoa học như trong phương pháp giáo dục ngày nay. 

Chữ Nho vốn là thứ chữ tượng hình. Mỗi chữ là một hình vẽ có nhiều nét mà không hình nào giống hình nào, do đó việc học và thuộc được mặt chữ để đọc, để viết cần rất nhiều trí nhớ. Hơn nữa, cách dạy của thời xưa không theo thứ tự từ dễ đến khó, tất cả đều theo phương pháp thuộc lòng. Kết quả là người nước ta ngày xưa có trí nhớ rất tốt, nhưng trí phán đoán lại rất tệ, có nghĩa là hấp thụ nhiều kiến thức nhưng lại không biết vận dụng một cách sáng tạo để ứng dụng với môi trường thiên nhiên và xã hội bên ngoài. Đây có thể nói là do chính sách ngu dân bắt nguồn từ thời kỳ Bắc thuộc.

Những sách để học chữ Nho do người Việt sáng tác

Việc học chữ Hán của người Việt cũng giống như học một môn ngoại ngữ. Những học giả thời trước đã cố gắng phiên âm chữ Hán theo âm tiếng Việt. Nên nhớ rằng, cho đến thế kỷ thứ 10, người Việt chưa có chữ viết, vì vậy những phiên âm này được lưu truyền trong dân gian cũng như những văn chương bình dân truyền khẩu khác.

Không biết từ lúc nào, những nhà học giả Việt Nam đã tạo ra những bài vần cho con em người Việt để học chữ Nho bằng tiếng Việt. Một bài vần thông dụng gọi là “Nhất thiên tự.” Nhất thiên tự: có nghĩa là một nghìn chữ, nhưng thực ra có 1015 chữ đặt theo thể ca lục bát, cứ một chữ Nho thì tiếp theo nghĩa của chữ ấy bằng tiếng Việt. Các chữ sắp đặt không theo thứ tự gì và các câu không có ý nghĩa gì. Xin trích lục mấy câu đầu như sau: 

Thiên trời, địa đất, vân mây
mưa, phong gió, trú ngày, dạ đêm
Tinh sao, lộ móc, tường diềm ,
Hưu lành, khánh phúc, tăng thêm, đa nhiều

 Như đã nói ở trên, vào trước thế kỷ thứ 13, khi người Việt bắt đầu có hệ thống chữ Nôm khá hoàn chỉnh, thì mọi sáng tác đều được viết bằng chữ Hán, cho nên có thể khẳng định rằng Nhất thiên tự, khi mới sáng tác thì chỉ là một áng văn truyền khẩu cũng như tục ngữ ca dao, chứ không phải là một quyển sách.

Sau Nhất thiên tự, thì phải kể đến Tam Thiên tự. Sau nhiều công cuộc nghiên cứu, các nhà văn học sử kết luận rằng đây quả là một quyển sách được viết bằng chữ Nôm vào năm 1861 và tác giả là Ngô Thời Nhiệm, một học giả và làm quan dưới thời Lê Trung Hưng và sau này tiếp tục phục vụ dưới triều vua Quang Trung – Nguyễn Huệ,

Tên sách đặt thế, vì cuốn ấy có ba nghìn chữ. Chữ và nghĩa kế tiếp nhau thành từng đoạn hai tiếng một, cứ tiếng cuối đoạn trên ăn vần với tiếng cuối đoạn dưới. Các chữ sắp đặt không thành loại mục, ý nghĩa gì. Chúng tôi xin trích lục một đoạn đầu: 

Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn, 
tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba,   
gia nhà, quốc nước…

 Ngoài ra còn có quyển Ngũ thiên tự nhưng không rõ tác giả là ai, tác phẩm này được sáng tác theo hình thức thơ văn truyền khẩu và được viết lại bằng chữ Nôm và sau này chú thêm chữ quốc ngữ theo kiểu Latin. 

Cuốn này, theo như tên đặt, có năm nghìn chữ. Chữ và nghĩa ghép lại theo thể ca lục bát như cuốn Nhất thiên tự, nhưng các chữ đều được sắp thành từng mục như thiên văn, địa lý, quốc chính, luân thường, tứ dân, ẩm thực… Xin trích lục mấy câu đầu: 

Thừa nhân, nhàn vắng, hạ rồi. 
Kiền trời, khôn đất, tài bồi, trồng vun. 
Tích xưa, tự chữ, do còn. 
Quan xem, soạn soạn, viên tròn, thiên thiên…

Sơ học vấn tân: Tựa sách có nghĩa là bắt đầu học về đường lối của việc học. Sách gồm có 270 câu bốn chữ. Câu đặt không có vần, nhiều câu cũng không đối. Chia làm ba phần: 

  • Phần thứ nhất (130 câu) : tóm tắt lịch sử nước Tàu từ đầu đến đời Đạo Quang (1821 1850) nhà Thanh. 
  • Phần thứ hai (64 câu): tóm tắt lịch sử nước Nam từ đời Hồng Bàng đến triều Nguyễn. 
  • Phần thứ ba (76 câu): lời khuyên học trò về việc học và cách xử thế. 

Với nội dung như vậy, có thẻ chứng tỏ rằng quyển sách này được sáng tác trong thời kỳ nhà Nguyễn. Xin trích lục mấy câu ở phần thứ hai : 

Âm chữ Hán: Kỳ tại quốc bản, cổ hiệu việt thường; Đường cải An nam, Hàn xưng Nam Việt, Thần nông tứ thế, thứ tử phân phong; viết Kinh Dương Vương, hiệu Hồng Bàng thị. 

Nghĩa tiếng Việt: Ở nước ta, xưa gọi là Việt Thường; nhà Đường đổi làm An nam, nhà Hán gọi là Nam Việt. Cháu bốn đời vua Thần nông , (vốn là) con thứ được phong (làm vua ở xứ ta) gọi là vua Kinh Dương hiệu là Hồng Bàng. 

Ấn học ngũ ngôn thi: Tựa sách có nghĩa là ―thơ năm tiếng để trẻ học. Sách gồm có 278 câu thơ ngũ ngôn, đại ý nói về lạc thú và kết quả của sự học và tả cái mộng tưởng của một người học trò mong thi đậu trạng nguyên. Bởi thế cuốn ấy cũng gọi là Trạng nguyên thi. Xin trích lục một đoạn: 

Âm chữ Hán: Di tử kim mãn doanh, hàn hư giáo nhất kinh. Tinh danh thư quế tịch, chu tử liệt triều khanh. Dưỡng tử giáo độc thư, thư trung hữu kim ngọc, Nhất tử thụ hoàng ân, toàn gia thực thiên lộc. 

Nghĩa tiếng Việt: Để cho còn đầy hòm vàng, sao bằng dạy con một quyển sách. Họ tên chép vào sổ quế (sổ người được đỗ vi thì đỗ thường gọi là bẻ quế), mặc màu đỏ tía (màu áo đại trào) đứng ngang hàng các bậc công khanh trong triều. Nuôi con mà dạy con đọc sách, (tức là) trong sách có vàng ngọc. Một người con được chịu ơn vua, cả nhà được ăn lộc trời.

Sách của người Tàu làm 

Những sách của người Tàu làm mà xưa ta dùng để học chữ Nho thì có cuốn Thiên tự vạn do Chu Hưng Tự làm quan đời nhà Lương soạn ra trong có một nghìn chữ đặt thành những câu bốn chữ có vần.

Cuốn Hiếu kinh của Tăng tử học trò đức Khổng tử chép lời đức Khổng tử dạy về đạo hiếu. 

Thông dụng hơn cả, có thể nói là những cuốn Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn, và cuốn Tam tự kinh. Dưới đây là nội dung tóm tắt của ba quyển sách này.

Minh tâm bảo giám: Tựa sách có nghĩa là tấm gương báu soi sáng cõi lòng. Sách này sưu tập các câu cách ngôn của các bậc thánh hiền đời xưa chép trong kinh truyện và các sách để dạy người ta sửa tâm rèn tính cho ngày một hay lên. 

Sách chia làm 20 thiên. Trích lục mấy câu trong thiên thứ nhất là thiên Kế thiện.

Âm: Tử viết: Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, thiên bào chi dĩ họa.

Nghĩa: Đức Khổng tử nói rằng: Người làm điều lành thì trời lấy phúc mà báo cho; người làm điều chẳng lành thì trời lấy vạ mà báo cho. 

Âm: Thượng thư vân: Tác thiện giáng chi bách trường, tác bất thiện giáng chi bách ương. Nghĩa: Sách Thượng thư chép rằng: ai làm điều lành trời cho cho trăm điều phúc, ai làm điều dữ, trời giáng cho trăm điều vạ.

Âm: Trang tử viết: ―Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi.

Nghĩa: Ông Trang tử nói rằng : Một ngày không nghĩ đến điều thiện, thì mọi điều ác đều tự dấy lên. 

Minh đạo gia huấn: Tựa sách có nghĩa là sách dạy trong nhà của Minh đạo. Minh đạo tức là Trinh hiệu, một bậc danh nho đời Tống. 

Sách gồm có 500 câu thơ tứ ngôn, hoặc mỗi câu mỗi gieo vần, hoặc cách một câu mới có vần. Các câu ấy đều là những lời khuyên răn về luân thường đạo lý và chỉ bảo về cách tu thân xử thế. Có nhiều câu lời gọn ý hay đã thành những câu cách ngôn được người đời truyền tụng. 

Xin trích một đoạn để minh họa: 

Khai quyển hữu ích. Chi giả cành thành (Mở sách có ích. Người có chí thì nên) 
Tích cốc phòng cơ; tích y phòng hàn (Trữ thóc phòng đói, trữ áo phòng rét)
Giáo phụ sơ lai; giáo tử anh hài (Dạy vợ lúc mới về; dạy con lúc còn thơ) 
Nữ vật tham tài; nam vật tham sắc. (Gái chớ tham của; trai chớ tham sắc.) 
Bần nhi vô xiểm; phú nhi vô kiêu (Nghèo mà không nịnh; giàu mà không kiêu) 
Nhân tham tài tử; điểu tham thực vong. (Người tham của thì chết; chim tham ăn thì mất) 
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ (Đói rét thiết đến thân, không đoái tới liêm sỉ ) 
Tự tiên trách kỷ, nhi hậu trách nhân. (Trước tự trách mình, rồi sau trách người) 
Hàm huyết phún nhân, tiên ô ngã khẩu (Ngậm máu phun người, trước dơ miệng ta) 
Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác (Trữ thiện gặp thiện, trữ ác gặp ác) 
Cận chân giả xích, cận mặc giả hắc (Gần son thì đỏ, gần mực thì đen. ) 
Đãn hoạn vô tài, bất hoạn vô dụng (chỉ lo không có tài, chẳng lo không được dùng) 

Tam tự kinh. Tựa sách có nghĩa là sách ba chữ vì các câu trong cuốn âý đều có ba chữ. Các chữ cuối câu chẵn đều có vần, và cứ hai vần trắc lại đổi sang hai vần bằng. Sách ấy vẫn truyền là do Vương Ứng Lân, người đời nhà Tống soạn ra.

Sách có 358 câu, chia làm bảy đoạn đại ý như sau: 

§  Đoạn thứ I : Nói về tình người và sự dạy dỗ. 
§  Đoạn thứ II: Lễ nghi, hiểu để, bổn phận của trẻ con 
§  Đoạn III: Các điều thường thức: kể rõ các số mục giải thích thế nào là tam tài (trời, đất, người), tam quang (mặt trời, mặt trăng, sao), tam cương (ba giềng: vua tôi, cha con, vợ chồng), tứ thời (bốn mùa), tứ phương (bốn phương), ngũ hành (năm hành: thủy, hỏa,mộc, kim, thổ) , ngũ thường (năm nết thường: nhân, nghĩa, lễ trí, tín), lục cốc (sáu giống lúa) lục súc (sáu giống vật nuôi), thất tình (bảy mối tình trong lòng người), bát âm (tám thứ tiếng trong âm nhạc), cửu tộc (chín đời trong họ.), thập nghĩa (mười điều nghĩa). 
§  Đoạn thứ IV: Các sách học : Hiếu kinh (sách dạy về đạo hiếu), Tứ thư (bốn cuốn sách gốc trong đạo Nho), Ngủ kinh (Năm cuốn sách chính trong đạo Nho), ngủ tử (năm nhà triết học) chư sử (các sách sử)
§  Đoạn thứ V: Kể các triều vua trong lịch sử nước Tàu từ đầu đến đời Nam Bắc triều.
§  Đoạn thứ VI: Kể gương của người chăm học đời xưa để khuyến khích học trò. 
§  Đoạn VII:Mấy lời khuyên trẻ con nên chăm học để sau này được hiển vinh. 

Trích lục một đoạn: 

Âm: dưỡng bất giáo, phụ chi quá. Giáo bất nghiêm, sư chi nọa. Tử bất học, phi sở nghị. Ấu bất học, lão hà vi. Ngọc bất trác, bất thành khí. Nhân bất học, bất tri lý 
Nghĩa: Nuôi mà chẳng dạy là lỗi của người cha. Dạy mà chẳng nghiêm, do sự lười của ông thầy. Người con mà không học là lỗi đạo làm con. Bé không học, già làm gì. Hòn ngọc không giũa không thành được đồ dùng. Người ta không học, không biết được lẽ phải. 

Lời kết 

Tất cả các sách kể trên do người Tàu viết và lưu hành trên đất Việt, xét về phương diện sư phạm, đều không hợp với trình độ trẻ con, vì quyển nào cũng ngay tự chỗ bắt đầu, dùng những chữ khó hoặc về ý nghĩa, hoặc về mặt chữ. 

Nhưng ta cũng phải nhận rằng, trừ ba quyển trên chỉ là những sách dạy tiếng một đặt thành câu có vần cho dễ nhớ không kể, còn các quyển dưới đều có chủ ý dạy trẻ biết luân thường đạo nghĩa, lại phần nhiều đặt theo lối văn vần, thành ra trẻ con học thuộc những câu ấy, tuy lúc nhỏ chưa hiểu rõ nghĩa lý, nhưng đến lúc lớn, nhớ ra, ôn lại, thời dần dần cũng vỡ vạc thấm thía các nghĩa lý ấy mà coi những câu ấy như những câu châm ngôn để tu thân xử thế, thật rất có ảnh hưởng về đường tinh thần luân lý. 

Theo thiển ý của tác giả, hệ thống giáo dục này, khác hẳn với hệ thống giáo dục của người Trung Quốc trong cùng một thời kỳ, có lẽ mục tiêu của giới thống trị Trung Quốc là muốn thực hiện một chính sách ngu dân.  Trong những thời kỳ sau, dù nước nhà đã có sự độc lập về chính trị, nhưng chính sách ngu dân vẫn để lại những ảnh hưởng to lớn trong việc giáo dục và phát triển văn học của người Việt chúng ta.

You may also like

Verified by MonsterInsights