QUỐC ĐỊNH
Khám phá những bộ sưu tập cổ vật, kỷ vật của anh Huỳnh Minh Hiệp, người xem không khỏi bỡ ngỡ vì số lượng, tính đa dạng, độc đáo của những gì anh đã sưu tầm được. Đó là thành tựu của sự cần mẫn, đam mê, cả sự hy sinh và lặn lội gian khó cũng như cơ duyên trong nhiều chục năm của anh…
Những kỷ vật gợi bao ký ức
Khách ghé quán cà phê Lúa (ở Phú Nhuận) và Xứ Nam Kỳ (ở Bình Thạnh) của anh, dù đến nhiều lần, cũng sẽ luôn ngạc nhiên và thích thú với những món đồ, hiện vật mà anh bài trí, giới thiệu với mọi người.
Tuy mỗi quán có một “chuyên đề,” nhưng đó cũng chỉ là bề nổi của cái gia sản hàng ngàn hiện vật mà Huỳnh Minh Hiệp đã dày công sưu tập từ hơn 30 năm nay. Như bộ “tiền mặt trận” anh trưng bày, giới thiệu. Người xem có dịp đi ngược 50 năm trước để “nghe” các tờ tiền này, “kể” về sự vật đổi sao dời, sau những biến thiên của thời cuộc.
Trong thời gian đầu sau ngày 30/4/1975, để có một thời gian đệm cho sự chuẩn bị cần thiết, hai miền vẫn dùng hai đồng tiền khác nhau: Miền Bắc vẫn là tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, miền Nam tiếp tục dùng tiền của chính quyền cũ. Ngày 3/5/1975 chính quyền mới tiếp quản Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Sài Gòn và vẫn sử dụng đồng tiền của chế độ cũ để không gây rối loạn trong lưu thông tiền tệ ở miền Nam. Năm tuần sau, ngày 6/6/1975, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định số 04/PCT – 75 về thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do ông Trần Dương làm Thống đốc.
Đến ngày 22/9/1975, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tổ chức cuộc đổi tiền trên quy mô toàn miền Nam để đưa đồng tiền mới vào lưu thông với tỷ lệ một đồng tiền mới ăn 500 đồng tiền của chế độ cũ và có tỉ giá tương đương với một USD. Tiền mới là tiền giấy, có mệnh giá từ: 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và lớn nhất là 50 đồng. Trên tờ tiền ghi là của Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Là tiền mới, nhưng thật ra các loại tiền này đã được in từ những năm 1966, do chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt in tại Tiệp Khắc. Đây là loại tiền sẽ được phát hành dự kiến sau năm 1968 tại miền Nam. Khi đó, miền Bắc đã chuẩn bị rất chu đáo cho sự “giải phóng miền Nam” bằng sự kiện “tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.” Kế hoạch này bất thành, nên các loại tiền này đã phải nằm “chờ thời” cho đến sau tháng 9/1975, mới được ra mắt, chính thức lưu hành trên toàn miền Nam.
Khách cũng có thể “chiêm ngưỡng” một bản “Giao kèo chơi hụi,” một loại hình tín dụng dân gian, vốn phổ biến trong xã hội của người Việt, tràn ngập khắp các hang cùng ngõ hẻm ở miền Nam từ 60-70 năm trước cho đến nay. Giao kèo rất chi tiết với những điều khoản: Tư cách hụi viên, gửi thăm, rút thăm, đóng hụi, giờ khui hụi, giờ giao bạc (tiền), ngưng đóng, hụi viên qua đời… Anh Huỳnh Minh Hiệp kể, đây là món “hàng độc” bởi nó gắn liền với mọi tầng lớp, đời sống xã hội người miền Nam từ cả thế kỷ qua. Vì đồng tiền vốn “đi liền khúc ruột,” mà loại tín dụng dân dã này, đã ăn sâu vào ký ức của mọi người bất kể sang hèn. Và chuyện “hụi hè” cũng đã mang trong nó biết bao sự thăng trầm “lên voi xuống chó,” bao chuyện vui buồn, hỷ nộ ái ố của cuộc sống thường ngày. Để có được món hàng độc này, anh đã tốn rất nhiều thời gian và cả tiền bạc kèm theo cùng câu chuyện cũng ly kỳ không kém.
Bồi hồi là cảm giác khi khách đứng trước tờ “Xổ số kiến thiết Quốc gia,” được bọc plastic mà anh “show hàng” cho mọi người. Đó là tờ xổ số “không bao giờ xổ,” loại 50 đồng, sẽ được mở thưởng trên toàn miền Nam vào ngày 3/5/1975. Cũng có cảm giác này khi ngắm các tờ tiền mệnh giá năm ngàn đồng và 10 ngàn đồng không bao giờ phát hành, của chính quyền Sài Gòn do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam chuẩn bị phát hành.
Cũng “đã” không kém là khi khách xem bản in tờ rơi quảng cáo của tiệm vàng Nguyễn Thế Tài, Nguyễn Thế Hùng (số 43 đường Schroeder, bên hông chợ Bến Thành, nay là đường Phan Chu Trinh, quận 1) vào thập niên 40-50. Phía sau tờ rơi có in bốn bài thơ quảng cáo hai tiệm vàng này. Những bài thơ quảng cáo này có thể thơ song thất lục bát, lục bát với ngôn ngữ bình dân, giản dị, mộc mạc của những năm 40-50, rất dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng người. Bài thơ quảng cáo số một, với lời mở “đập” ngay vào lòng người: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước nên thương nhau cùng/Anh em chung giống Lạc Hồng/Ta nên ủng hộ nhau cùng hởi ai/Sắm vàng nên đến Thế Tài/Tiệm vàng này chính của người Việt Nam…”. Hay như bài thơ quảng cáo số 3: “… Chị ơi chẳng rượu mà say/Saigon buôn bán vui vầy xiết bao/Vui sao vui biết ngần nào/Đi chơi chẳng biết tốn hao bạc tiền/Say như trong mộng triền miên/Nhứt là khi đặt gót lên Thế Tài/Bên hông chợ Mới thành Sài…”, những lời thơ bình dị mà cứ “kích cầu” làm sao.
Bộ sưu tập lập nên một kỷ lục gia
Tiền là cơ duyên mà anh Hiệp trở thành một nhà sưu tập có đến bảy kỷ lục hiện nay, nên tiền cũng là bộ sưu tập đồ sộ, đáng giá nhất của anh. Anh Hiệp bắt đầu “chơi” tiền từ hồi “chập chững” học cuối cấp Ba (lớp 12), khi ấy nhân sinh nhật anh, ba anh đã “lì xì” cho tờ năm USD thời nội chiến Nam – Bắc Mỹ. Từ dạo ấy, anh đã nhịn ăn, nhịn uống, ráng “góp gió thành bão,” chắt chiu từng đồng ăn sáng, xài vặt để mua những đồng, những tờ giấy bạc đầu tiên. Năm 1993, sau khi tốt nghiệp đại học (ngoại ngữ Anh) anh Huỳnh Minh Hiệp làm ở cửa hàng miễn thuế tại sân bay Tân Sơn Nhất, với nghề tay trái là ảo thuật, mỗi lần trình diễn tại phòng chờ, khách quốc tế thường thích thú, “bo” (pourboire) và tặng anh những tờ tiền nước ngoài lạ lẫm. Kể từ đó, anh nhận ra mình có “duyên” và niềm đam mê với… tiền.
Ấn tượng hơn cả là bộ sưu tập hơn 10.000 đồng xu tiền của các triều đại phong kiến Việt Nam và thế giới, trong đó có những đồng tiền đã hơn 1.000 năm tuổi. Khi niềm đam mê luôn “rần rần trong máu” thì nghe ở đâu có tiền cổ, Hiệp tìm đến ngay. “Duyên lành” và may mắn khi anh được người có mệnh danh “vua tiền cổ Bắc Ninh” Nguyễn Văn Thạo tặng đồng tiền xu thời vua Đinh Tiên Hoàng cho đúc năm 970, niên hiệu “Thái Bình Hưng Bảo”. Đây là đồng tiền riêng đầu tiên của nước ta, đánh dấu nền độc lập sau ngàn năm Bắc thuộc.
Các mẫu tiền của các quốc gia và vùng lãnh thổ mà anh có, thật đa dạng và… chẳng giống ai. Như tiền bạc Thái Lan, có từ thế kỷ 18, hình dạng một thanh dài khoảng 10cm, thuôn và một hạt nhỏ đi bên cạnh cho đủ… mệnh giá. Rồi đồng một đồng của đảo quốc Cook, phát hành năm 1983, mặt trước có hình Nữ hoàng Elizabeth II, mặt sau có hình một thổ dân đang đứng… tè, hiện vẫn còn giá trị lưu hành. Để có các loại tiền bloc (20 tờ tiền chưa cắt sau khi in), anh cũng “trần ai” vất vả mới mang về cho bộ sưu tập của mình. Đơn giản vì hải quan cửa khẩu cứ nghĩ là anh buôn lậu tiền mới có những bloc tiền như vậy, tổng cộng giá trị rất lớn. Hiện anh có 11 loại bloc tiền, mỗi bloc có từ 32 đến 40 tờ, trong đó, bloc lớn nhất là tiền của Hàn Quốc, 40 tờ. Trong sưu tập tiền, những tờ bạc bị lỗi in, hoặc không được phát hành là những tờ bạc vô giá. Trong bộ sưu tập của anh có bộ tiền Iraq, in hình tổng thống Saddam Hussein, chưa kịp phát hành thì Mỹ và liên quân đã xóa sổ chế độ này.
Anh Hiệp cho biết, mỗi loại tiền anh sưu tập được, anh phải có từ ba mẫu trở lên, anh mới… thỏa lòng. Ở tiền giấy, bộ sưu tập của anh có những mẫu rất lạ, hiếm như các tờ dollar Mỹ có mệnh giá… một triệu và một triệu tỷ (?). Thật ra, những tờ tiền có mệnh giá… trên trời này được Ngân hàng Trung ương Mỹ in ra chỉ để dành cho dân sưu tập chơi cho vui, không có giá trị thực tế. Anh kể vui, khi “nhập” những tờ tiền này vào Việt Nam, hải quan sân bay Tân Sơn Nhất đã tròn mắt, há miệng vì không biết phải đánh thuế hay phạt, tịch thu các tờ tiền có mệnh giá quá lớn này ra sao. Anh phải giải thích mãi, nhờ chuyên gia bên Mỹ gọi điện về, số phận các tờ giấy bạc này mới được “giải phóng,” về nằm trong bộ sưu tập của mình.
Tiền Mỹ, anh cũng có các tờ dollar có từ thời nội chiến Nam – Bắc Mỹ (1861-1865), cực kỳ quý hiếm hoặc các tờ có mệnh giá một, hai, năm USD in năm 1928 và đặc biệt là ba tờ dollar may mắn, mệnh giá một, hai, năm USD có cùng số series 88889595. Rồi đến bộ tiền xu 25 cent rất đáng chiêm ngưỡng. Đây là 50 mẫu tiền khác nhau, được Ngân hàng Trung ương Mỹ cho phát hành tại từng bang, bắt đầu từ năm 1999, mỗi năm chỉ phát hành tại 5 bang, đến năm 2008 mới “phủ sóng” đủ 50 bang.
Anh tâm tình: “Khó mà kể hết những chuyện “trần ai khoai củ” mà tôi đã trải qua khi hình thành một “kho” tiền độc đáo như ngày nay. Mỗi một mẫu tiền lạ, khi “sợt” (search) thấy trên mạng là người tôi run lên, qua các mạng xã hội, facebook, email… tôi cố liên hệ để hỏi mua hoặc trao đổi với nơi có mẫu hoặc các nhà sưu tập “đồng điệu” khắp thế giới để có được các mẫu này.” Nói vậy, nhưng với chính anh, một nhà sưu tập cũng đâu có dễ. Có khi người bán “hét giá trên trời,” “phá” mặt bằng chung của giới sưu tập, có khi người ta “chảnh,” chẳng thèm phúc đáp lời hỏi mua, trao đổi với mình, lại phải năn nỉ cả tháng. Ví dụ, để có được ba tờ dollar may mắn, anh phải “dụ” một nhà sưu tập ở Mỹ cả tháng trời, cuối cùng anh phải trả một mức giá… quá hớp để có được những tờ tiền quý hiếm đó. “Giá ba tờ này là bao nhiêu? 100, 300, 500 hay cả ngàn đô?”, anh chỉ mỉm cười bí hiểm, nói là rất đắt, đắt lắm, rồi phải đủ duyên mới có được.
Khắp nhà, tiền giấy, tiền đồng được anh trưng bày kín cả mấy tầng lầu, đủ loại kích cỡ và màu sắc, nhìn cứ như một đàn bướm sặc sỡ đang bay lượn. “Đàn bướm” này có những mẫu rất lạ như: tiền giấy Tây Tạng, tiền Vatican, tiền của các đảo quốc và vùng lãnh thổ như: tiền Nam cực, đảo Cook, Belize, Cayman, Bahamas, Barbados, Madagascar, đảo Guernsey (thuộc Vương quốc Anh), Gibraltar, Bermuda, Tây Phi…
Ở bộ sưu tập tiền giấy Việt Nam, anh Hiệp gần như có đủ các loại tiền qua các thời kỳ. Tờ năm đồng (phát hành 1923), dân gian gọi là tờ Con Công, vì mặt sau có in hình con công màu xanh và dòng chữ Năm Bạc, cùng chữ Hán. Còn giấy “bạc lớn bộ lư” (100 đồng), phía trước in hình cổng điện Thái Hòa, mặt sau in hình bán thân Toàn quyền Đông Dương. Đây là loại giấy bạc mà các điền chủ lớn, phú hào mới có, ít ai dám xài chỉ để dành, tích của mà thôi. Ai “lớn xớn” ăn mặc lùi xùi mang tờ bạc này ra đường là bị “phú lít” (cảnh sát) hỏi thăm… sức khỏe liền. Đồng tiền mang giá trị rất lớn thời đó, đi sâu vào đời sống của người dân nên có câu ca dao: “Cưới em bằng bạc Con Cò/Đâu phải hẹn hò nói chuyện đẩy đưa/Em tham đồng bạc Hoa Xòe/Trốn cha trốn mẹ đi kề người Tây…”. Với hơn 12.000 loại tiền giấy, tiền xu, của Việt Nam và 222 quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, anh Huỳnh Minh Hiệp đã xác lập kỷ lục “Người có bộ sưu tập tiền thế giới nhiều nhất Việt Nam.”
Tiếng dội ký ức
Nhưng những món đồ mang lại nhiều cảm xúc nhất, khiến người xem không khỏi bồi hồi của anh, lại là những món đồ ít có giá trị kim tiền. Đó là tờ báo Đông Phương, số ra ngày Thứ Tư 30/4/1975 với dòng “tít” đậm, lớn chạy trên đầu trang nhất: “Khoảng nửa giờ sau lễ bàn giao Tổng thống VNCH tại Dinh Độc Lập – Ba máy bay A-37 ném bom phi trường TSN.” Và bên dưới có dòng “tít” phụ: “Tân Sơn Nhứt – 11 phi cơ VNCH bị hư hại nặng,” dưới là hình ảnh chiến sự tại các vùng ven thủ đô (Sài Gòn). Bên bìa trái (hình) có tin: “Trả tự do cho tất cả (tù nhân) bị bắt vì lý do chính trị.” Tin có nội dung: “Tân Thủ tướng Chính phủ Hòa hợp Hòa giải Dân tộc Vũ Văn Mẫu ngay khi vừa nhậm chức, đã đưa ra những quyết định khẩn cấp như sau: 1/Trước khi chờ đợi thả hết tù chính trị, trả tự do cho tất cả sinh viên học sinh vì lý do chính trị, trong đó có SV Huỳnh Tấn Mẫm; 2/Cho phép tất cả những tờ báo bị đóng cửa và trả tự do tức khắc cho tất cả các ký giả bị chế độ Thiệu bắt. Ngoài ra, Phó Thủ tướng cũng ra thông cáo cho biết nguyên Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn và là nguyên Chủ tịch Hạ viện cũng đã đào tẩu ra ngoại quốc ngay trước khi làm lễ bàn giao.”
Rồi tờ “Lệnh huy động xe ô tô” của “Ban vận động tổ chức hồi hương TPHCM” ngày16/9/1975, điều động xe để đưa đồng bào hồi hương, xây dựng kinh tế mới, từ Sài Gòn đi Bình Phước. Hay các tờ giấy, đơn xin đổi tiền của nhiều người vào năm 1975. Một trong những “Giấy xin đổi tiền” ký tên Trần Nhựt Đông, ngày 24/9/1975 “tiền chánh phủ Sài Gòn cũ” xin được đổi: ba tờ 1.000 đồng; 27 tờ 500 đồng; 2 tờ 200 đồng và 31 tờ 100 đồng. Tổng cộng là 20.000 đồng, ra tiền mới. Có một Chứng từ đổi tiền của Ban thu đổi tiền quận hai ngày 23/9/1975, đổi 100 ngàn tiền Sài Gòn ra 200 ngàn tiền NHVN (mới). 200 ngàn tiền mới có các loại: 2 tờ 50đ, 10đ, 5đ và 2đ.
Ấn tượng hơn là hàng trăm loại hóa đơn mua hàng tiêu dùng, điện máy “cao cấp” vào những năm 60-70 của người dân Sài Gòn. Nó cho người xem có thể hình dung ra một phần đời sống của thị dân cũng như giá trị đồng tiền ngày ấy. Như tờ hóa đơn mua xe Goebel ngày 25/7/1965 của bà Nguyễn Thị Tính (chắc là mua cho chồng) từ tiệm Mỹ Tân, chuyên bán các loại xe gắn máy và đồ phụ tùng (số 311 đường Gia Long, nay là Lý Tự Trọng, quận 1). Giá bán là: Mười hai ngàn năm trăm bảy mươi ba đồng hai cắc chín (12.573,29 đồng). Hóa đơn bán một xe Velo solex của Pháp ghi tháng 2/1964, có giá là 7.780 đồng. Hay hóa đơn bán một máy đánh chữ từ hãng Sinco (thương hiệu máy may nổi tiếng ngày đó, kiêm đại lý độc quyền máy đánh chữ hiệu Brother), ghi ngày 17/12/1964. Giá một máy đánh chữ hiệu Brother Valiant là 2.881 đồng. Hóa đơn bán vàng của tiệm vàng lá Nguyễn Thế Tài, bán “một kiềng chạm hai mặt, nặng một lượng vàng lá” tháng 2/1953, với giá 3.800 đồng. Một hóa đơn bán một radio hiệu Hitachi vào tháng 12/1961, có giá 4.100 đồng. Đến các món hàng điện máy cao cấp với các gia đình thời ấy, như: Hóa đơn bán một máy điều hòa không khí (máy lạnh) hiệu Sanyo, vào tháng 6/1969 với giá là: 48.000 đồng; Hóa đơn bán một bếp gas hiệu National, tháng 3/1971 có giá là: 17.500 đồng, cộng tiền ba con niêm giá 42 đồng, là 17.542 đồng. Xin mở ngoặc một chút, tất cả các hóa đơn bán hàng thời ấy, đều có dán các con niêm (tem thuế, tem lệ phí), với nhiều mức giá khác nhau. Cơ quan tài chính thu thuế bằng cách bán tem thuế cho các cơ sở sản xuất các loại hàng hoá và buộc họ phải dán tem vào từng sản phẩm hàng hóa đưa ra tiêu thụ. Giá mua tem bằng mức thuế phải nộp trên một đơn vị hàng hoá. Không dán tem là lậu thuế.
Nhưng làm “rơi nước mắt” hơn cả, là hàng trăm các loại giấy tờ, sổ sách thời “bao cấp,” những năm cuối thập niên 70, đến thập niên 80. Nó như một nhật ký, ghi lại ký ức một thời mà người dân Sài Gòn (và cả nước) đã sống trong cảnh thiếu thốn trăm bề. Người dân phải khốn khổ, vật lộn với một ma trận “xin – cho,” để có thể có cái ăn, có cái để đảm bảo cuộc sống thường nhật tối thiểu. Có những cái mà giờ đây, các thế hệ sau này sẽ không bao giờ nghĩ (và hiểu) được là nó đã từng tồn tại, phi lý một cách… không tưởng. Như: Sổ mua bánh mì của một hộ dân trên đường Nguyễn Tri Phương (quận Năm), vào năm 1978. Sổ có ghi: Ngày 1/11, mua 6 ổ; ngày 2/11, 6 ổ; ngày 10/11, 5 ổ; ngày 27/11, 2 ổ. Xin lưu ý, bánh mì này được bán từ Cửa hàng mua bán Hợp tác xã lương thực phường 14, quận 5. Để mua được vài ổ bánh mì mỗi ngày như thế, người dân phải xếp hàng từ 4-5 giờ sáng để mua. Có khi đến lượt mình, thì bánh mì trong cửa hàng đã… hết, đành phải ra về… tay không. Rồi sổ hàng Tết (phải xếp hàng mua) của một hộ dân mua được vào năm 1979, ghi trên Sổ mua bán là: nước mắm một lít (30 đồng); Mứt 0,25 kg (32 đồng); Tiêu 0,50 kg (11 đồng); Pháo 2 phong (bánh) 22 đồng; Thuốc lá Mai 1 gói 7 đồng, Du Lịch một gói 32 đồng.
Có một loại sổ mà nó đã là “cái phao cứu sinh” của nhiều gia đình ở Sài Gòn những “năm tháng khó quên” ấy! Loại sổ này không phải nhà nào cũng có. Nhà nào có, được mọi người trong tổ dân phố, trong xóm, coi như là “có số, có má.” Đó là sổ lãnh, nhận hàng từ nước ngoài gửi về. Không định kỳ, nhưng mỗi lần nhận được giấy báo lãnh hàng từ nước ngoài gửi về, gia đình ấy phải cầm sổ lên các điểm nhận hàng từ sân bay Tân Sơn Nhất hay bưu điện thành phố để nhận. Hàng phần nhiều là quần áo, vải vóc, xà bông, mỹ phẩm cùng rất nhiều thứ hàng tiêu dùng khác của thân nhân gửi về từ Anh, Pháp, Úc, Canada và nhiều nhất là ở Mỹ. Một thùng hàng khoảng chục ký là cả gia đình có thể bán, “sống vi vu” cả tháng trời hoặc hơn nữa. Trong thùng hàng nếu có vài chục loại thuốc Tây, nhất là kháng sinh, thuốc bổ là coi như… trúng số. Và quanh cái sổ lãnh hàng này, đã có rất nhiều câu chuyện “khóc cười,” nuôi sống nhiều gia đình, nhiều số phận để vượt qua những năm tháng vô vàn khó khăn.
Với anh Hiệp, hàng ngàn món đồ mình sưu tầm được cũng đủ để lập nên các phòng trưng bày chuyên đề khác nhau. Anh luôn trăn trở, là cần một không gian rộng lớn hơn để có thể trưng bày, giới thiệu nhiều hiện vật cổ của mình. Đủ không gian, anh sẽ trưng bày, giới thiệu bộ sưu tập của mình theo từng chuyên đề, từng thời kỳ, để có thể qua nó, kể những câu chuyện mà nhiều thế hệ người Sài Gòn đã có, đã sống. Hãy để cổ vật, hiện vật kể chuyện. Những câu chuyện sẽ được kể mãi cho con cháu sau này. Chỉ nhiêu đó, cũng đã là mãn nguyện lắm rồi cho cả một hành trình máu mê sưu tập như anh.




Similar article: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/hop-quet-zippo-mot-mon-vat-dang-suu-tam/