Các cuộc Thập tự chinh: Thành phố Jerusalem – Nước Palestine

by Hà Giang

LÝ THÀNH PHƯƠNG

Thập tự chinh là một loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo Hoàng và xúc tiến bởi các vị vua và quý tộc, là những người tình nguyện cầm lấy cây thập tự giá với mục tiêu chính là phục hồi sự kiểm soát của Kitô giáo với vùng Đất Thánh – Jerusalem. Quân thập tự đến từ khắp Tây Âu, và đã có một loạt các chiến dịch không liên tục giữa những năm 1095 và 1291. Các chiến dịch tương tự ở Tây Ban Nha và Đông Âu tiếp tục vào thế kỷ thứ 15. Các cuộc Thập tự chinh được tiến hành chủ yếu giữa người  Công giáo Roma đối đầu với người Hồi giáo. Chính Thống giáo Đông phương cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc Thập tự chinh. 

Vào thế kỷ thứ 7, quân Hồi giáo thực thi các cuộc trường chinh xâm chiếm các vùng đất mới. Họ mở rộng lãnh thổ từ bán đảo Ả Rập, đến Ai Cập – Bắc Phi, đến Thổ Nhĩ Kỳ – vùng Địa Trung Hải. Kỵ binh Hồi giáo sau đó tiến chiếm Tây Ban Nha, đi sâu vào lãnh thổ Pháp, và miền nam nước Ý rơi vào tay người Hồi giáo.

Vào lúc này, Đế quốc Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại một vài vùng đất ở châu Âu. Lúc này, nguy cơ người Hồi giáo tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người Kitô giáo. Để giành lại các vùng đất đã mất, Hoàng đế Byzantine kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây nhưng không có kết quả. Sau đó, họ kêu gọi sự giúp đỡ từ Giáo Hoàng và để đổi lại, họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa Chính thống giáo Đông Phương và Giáo hội Công giáo Rôma xảy ra năm 1054. 

Phong trào hành hương của tín đồ Kitô giáo về các miền Đất Thánh mà trong đó Palestine (nơi có đền thánh Jerusalem) là nơi thiêng liêng nhất bắt đầu phổ biến từ thế kỷ thứ 10 và đến thế kỷ 11 đã trở nên rất thịnh hành. Người Hồi giáo không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương nhưng họ thu rất nhiều loại thuế, phí gây ra làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng Kitô giáo.  

Thập tự chinh thứ nhất (1095 – 1099)

Tháng Chín năm 1095, Giáo Hoàng Urban II khi thuyết giảng tại Clermont, miền Nam nước Pháp, giảng rằng Chúa sẽ thưởng công cho những ai chiến đấu vì chính nghĩa, và Ngài kêu gọi giới quí tộc đảm nhiệm cuộc viễn chinh chiếm lại vùng Đất Thánh – Jerusalem. Lời kêu gọi này đã gây tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội phương Tây và dẫn đến một cuộc thập tự chinh mang tính đại chúng với sự tham gia đông đảo của nông dân, hiệp sĩ, và tu sĩ ở miền Bắc nước Pháp. 

Vào tháng Hai năm 1096, một thầy tu ẩn dật người Pháp tên là Pierre l’Ermite lãnh đạo một đội quân đông đảo nhưng trang bị thô sơ và không được tổ chức tốt từ Cologne (Đức) vượt qua Bulgaria, Hungary rồi kéo đến Constantinople. Đội quân này được hoàng đế Alexios I của Đế quốc Byzantine đưa qua eo biển Bosphorus, nhưng họ nhanh chóng bị quân đội Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đánh tan.

Ngay sau đó, một đội quân thực sự được tổ chức tốt hơn do giới quý tộc lãnh đạo đã lên đường khởi sự cuộc Thập tự chinh chính thức lần thứ nhất. Những chỉ huy gồm nhiều quý tộc ở các vùng của nước Pháp. Họ dẫn đầu bốn đạo quân theo nhiều hành trình đường bộ và đường biển đến Constantinople vào năm 1096 và 1097. 

Khi đoàn quân chủ lực tiến đến Antiochia và Jerusalem thì Baldwin xứ Boulogne tách đội quân của mình ra để chiếm Edessa (thuộc Hi Lạp), nơi ông thiết lập Công quốc thập tự quân đầu tiên ở phương Đông.

Chiến thắng có tính chất bước ngoặt của Thập tự quân là việc đánh chiếm thành phố cảng Antiochia sau cuộc vây hãm kéo dài tám tháng, mở thông đường tiến về  Jerusalem. Ngày 7/6/1099, Thập tự quân tới Jerusalem và bắt đầu vây hãm thành phố. 

Ngày 15/7/1099, Thập tự quân chiếm được Jerusalem và tàn sát các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo, cũng như cả Chính thống giáo Đông Phương. 

Sau đó với sự giúp đỡ của hạm đội của Venice và Genoa, Thập tự quân chiếm được toàn bộ bờ Đông Địa Trung Hải và thiết lập bá quốc Tripoli và một số tiểu quốc khác.

Kết quả của Thập tự chinh thứ nhất là đã lập ra một loạt những Công quốc Thập tự quân: Edessa, Antiochia, Tripoli (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ)… và đặc biệt là Jerusalem. 

Thập tự chinh thứ hai (1147 – 1149)

Năm 1144, việc quân Hồi giáo tái chiếm Edessa và uy hiếp Jerusalem đã dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ hai. Đoàn thập tự chinh gồm hai đội quân, một do vua Louis VII của Pháp, một do vua Konrad III của Đức chỉ huy lên đường chiếm Damascus (Syria) để tạo tiền đồn phòng thủ tốt hơn cho Jerusalem. Cuộc đột chiếm Damascus thất bại, thành phố này rơi vào tay vua Nur ad-Din Zangi, vị tiểu vương Hồi giáo đã dẫn quân đến cứu viện theo đề nghị của Damascus. Đội quân Thập tự chinh phải rút về nước mà không giành được một thành quả nào ngoại trừ việc Thập tự quân Bắc Âu dừng lại ở Lisboa và cùng với người Bồ Đào Nha chiếm lại thành phố này từ người Hồi giáo.

Thập tự chinh thứ ba (1189 – 1192)

Sau khi Saladin chiếm được Ai Cập, trở thành Sultan ở đây và thống nhất các tín đồ Hồi giáo, Syria bị đe dọa nghiêm trọng, lãnh thổ của người Kitô giáo có thể bị xâm lấn bất cứ lúc nào. Năm 1187, Saladin đánh bại quân Thập tự và chiếm lại Jerusalem nên nguy cơ Công quốc Thập tự quân này sắp bị xóa sổ. Trước tình hình đó, hoàng đế Friedrich I Barbarossa của Đế quốc La mã thần thánh, vua Philippe II Auguste của Pháp cùng vua Richard I (Lion Heart) của Anh đồng loạt tiến quân về phương Đông, tiến hành cuộc Thập tự chinh thứ ba. Ngày 10 tháng 6 năm 1190, Friedrich I Barbarossa chết đuối khi đang vượt sông Saleph (nay là sông Goksu), Thổ Nhĩ Kỳ và hầu hết quân đội của ông quay trở về nước. Đội quân của Philippe II Auguste của Pháp cùng vua Richard I (Lion Heart) đã vây hãm và chiếm được Acre, đây là thắng lợi quan trọng nhất của cuộc Thập tự chinh .

Nhưng do mâu thuẫn vốn có giữa 2 vương quốc nên Philippe II Auguste bỏ về nước. Thập tự chinh thứ ba kết thúc trong bế tắc, Richard phải ký hòa ước với Saladin vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, theo đó người Kitô giáo hành hương được quyền viếng thăm Jerusalem trong vòng 3 năm. 

Trên đường về nước năm 1192, con tàu của Richard I (Lion Heart) bị hỏng ở Aquileia (Ý), ông bị Leopold V (công tước Áo) bắt giữ rồi trao cho hoàng đế Heinrich VI (Đế quốc La Mã thần thánh). Richard I (Lion Heart) bị cầm tù cho đến 4 tháng 2 năm 1194 mới được phóng thích sau khi đã trả tiền chuộc.

Thập tự chinh - Wikiwand

Thập tự chinh thứ tư (1202 – 1204)

Cuộc Thập tự chinh thứ tư bắt đầu năm 1202 do Giáo hoàng Innocent III phát động với mục tiêu chiếm Ai Cập để từ đó tấn công Jerusalem. Thế nhưng do thiếu nguồn lực tài chính nên những người chỉ huy Thập tự quân đã thỏa thuận với Venezia nhằm có được phương tiện và hậu cần đảm bảo cho cuộc hành quân sang Ai Cập để đổi lại, người Venezia sẽ nhận một nửa đất chiếm được và Thập tự quân phải trả 85000 đồng ital bằng bạc. Sau đó, Venezia đề nghị đội quân Thập tự chinh đánh chiếm Zara, địch thủ thương nghiệp của Venezia, một thành phố cũng của người Kitô giáo. Thập tự quân đã tấn công và đánh chiếm Zara vào tháng 11 năm 1202. Kế tiếp, người Venezia lại thuyết phục Thập tự quân tấn công Constantinople, thủ đô của Đế quốc Byzantine theo Chính thống giáo Đông phương. Thành phố vốn đang bị chia rẽ bởi mối bất hòa giữa các phe phái này nhanh chóng thất thủ ngày 12 tháng 4 năm 1204. Mặc dù Giáo Hoàng Innocent III cố gắng ngăn chặn các đạo quân Thập tự, song chúng cũng cướp bóc và đốt cháy hết một phần thành phố. Sau đó người Venezia và Thập tự quân phân chia Đế quốc Byzantine  thành các công quốc và thống trị cho đến năm 1261. Cuộc Thập tự chinh chấm dứt mà Thập tự quân không tiếp tục tiến về chiếm lại Đất Thánh. 

Thập tự chinh thứ năm (1217 – 1219)

Thập tự chinh thứ năm do Giáo hoàng Honorius III tổ chức. Thập tự quân năm 1217 gồm các đạo quân do Leopold VI, Công tước Áo và Andras II, Công tước của Hungary dẫn đầu. Đến năm 1218, quân đội của Oliver thành Cologne và một đội quân hỗn hợp của vua Hà lan Willem I cũng tham gia. Mục tiêu của Thập tự quân lần này là tấn công Ai Cập. Năm 1219, Giáo hoàng cử đại diện là Pelagius thống lĩnh cuộc Thập tự chinh. Thập tự quân công chiếm Damietta và người Hồi giáo đã đề nghị đổi quyền kiểm soát giữa Damietta và Jerusalem nhưng Pelagius từ chối. Năm 1219, Thập tự quân định tấn công Cairo nhưng không vượt qua được sông Nin đang trong mùa nước lũ và buộc phải rút lui do hậu cần không đảm bảo. Trên đường rút lui, những cuộc tấn công vào ban đêm của quân đội Hồi giáo đã gây nhiều thiệt hại cho Thập tự quân và Damietta bị tái chiếm. 

Thập tự chinh thứ sáu (1228 – 1229)

Đoàn quân do hoàng đế Friedrich II (Đế quốc La Mã thần thánh) đứng đầu tiến hành Thập tự chinh thứ sáu năm 1228 nhưng nhanh chóng quay trở về và Friedrich II đã bị Giáo hoàng rút phép thông công. Sau đó Friedrich II quay sang đàm phán, năm 1229 ông đạt được với người Hồi giáo một hiệp ước hòa bình trong mười năm, khôi phục lại quyền kiểm soát Jerusalem, Nazareth, và Bethlehem cùng với một hành lang từ Jerusalem ra biển cho những người Kitô giáo. Trước sự chống đối của các giáo trưởng ở Jerusalem, Friedrich II đã tự phong mình làm vua ở đây năm 1229. Năm 1244, Jerusalem thất thủ trước sự tấn công ồ ạt của lính đánh thuê Hồi giáo. Người Hồi giáo làm chủ Jerusalem cho đến năm 1917 thì người Kitô giáo mới lấy lại vùng Đất Thánh này. 

Thập tự chinh thứ bảy (1248 – 1254)


Sau khi Jerusalem bị chiếm, vua Pháp Louis IX đã chuẩn bị một cuộc Thập tự chinh vào năm 1247, mục tiêu lần này vẫn là Ai Cập. Mặc dù đội quân không được tổ chức tốt, năm 1248, ông vẫn chiếm được Damietta một cách dễ dàng và tiến quân về Cairo năm 1249. Tuy nhiên, Thập tự quân nhanh chóng bị quân Hồi giáo của Baybars I và Emir Fakr ed-Din đánh bại trong trận Mansoura ngày 8 tháng 2 năm 1250, Damietta lại rơi vào tay người Hồi giáo. Vua Louis IX  của Pháp bị bắt làm tù binh và được thả sau khi đã trả tiền chuộc. 

Thập tự chinh thứ tám và thứ chín (1270)

Thập tự chinh thứ tám cũng do do vua Louis IX của Pháp tiến hành. Cuộc viễn chinh lần này nhằm đến Tunisia. Trong khi tấn công Tunisia, Louis IX chết vì bệnh dịch hạch. Sau đó đội quân của Louis IX cùng với đoàn Thập tự quân do hoàng tử Anh Edward tiếp tục tiến hành cuộc Thập tự chinh, gọi là cuộc Thập tự chinh thứ chín, nhưng không đạt kết quả nào.

Đây cũng là cuộc viễn chinh cuối cùng trong thời Trung Cổ của người Kitô giáo tới miền Đất Thánh. Năm 1289, Tripoli bị người Hồi giáo chiếm và tới năm 1291, khi Acre cũng rơi vào tay họ thì giai đoạn của các cuộc Thập tự chinh thời Trung cổ kết thúc.

Mặc dù những cuộc Thập tự chinh ban đầu mang đậm màu sắc tôn giáo, nhưng giới sử học cho rằng những cuộc Thập tự chinh về sau còn có các động cơ khác như giải quyết vấn đề kinh tế, mâu thuẫn trong chính trị, và các yếu tố xã hội khác nhau.

Bên cạnh những động cơ đó, còn có một tham vọng bành trướng lãnh thổ của những nhà lãnh đạo theo Kitô giáo bằng cách xâm lăng đất đai của người Hồi giáo. Trong giai đoạn này, Kitô giáo đã bị các thế lực phong kiến và thậm chí là các Giáo hoàng đương thời lợi dụng và diễn dịch theo nghĩa phục vụ cho cuộc chiến của họ. Điều đó đã trở thành một trong các nguyên nhân biến Thập tự chinh trở thành một trong những vết nhơ khủng khiếp nhất của lịch sử Kitô giáo.

Trong suốt những cuộc viễn chinh, những đoàn quân Thập tự đã thẳng tay tàn sát, cướp bóc, thậm chí cá biệt có nơi còn ăn thịt người Hồi giáo, hoặc cổ động cả trẻ em vào cuộc chiến, dẫn đến việc hàng ngàn trẻ em bị bắt bán làm nô lệ. Cuối cùng, những cuộc Thập tự chinh cũng không bóp nghẹt được sự xâm lăng của Hồi giáo mà thậm chí lại góp phần làm cho Constantinople sụp đổ và bị chiếm đóng trong cuộc Thập tự chinh thứ tư.


Các Cuộc Thập Tự Chinh | Tải Sách Miễn Phí, Đọc Sách Online

Thành phố Jerusalem – Nước Palestine
Jerusalem là một thành phố ở Trung Đông, nằm trên một cao nguyên thuộc dãy núi Do Thái giữa Địa Trung Hải và Biển Chết (Dead sea). Đây là một trong những thành phố lâu đời nhất trên thế giới và được coi là một địa điểm linh thiêng đối với ba tôn giáo khởi nguồn từ Abraham là Do Thái giáo, Kitô giáo, và Hồi giáo.

Trong lịch sử lâu dài của mình, Jerusalem đã bị phá hủy ít nhất hai lần, bị bao vây 23 lần, bị chiếm 44 lần, bị tấn công 52 lần. 

Kể từ năm 1860, Jerusalem đã phát triển vượt xa ranh giới của Thành phố cổ. Năm 2011 dân số Jerusalem là 801.000, trong đó người Do Thái chiếm 497.000 (62%), Hồi giáo Palestine 281.000 (35%), Kitô hữu 14.000 (khoảng 2%), và 9.000 (1%) người không được phân loại theo tôn giáo.


jerusalem

Jerusalem: Vùng đất thiêng của 3 tôn giáo

Khu Thành cổ Jerusalem là vùng đất thánh của ba tôn giáo: Do Thái giáo, Kitô giáo, và Hồi giáo, với vài tỉ tín đồ trên thế giới. 

Đây là vùng đất thánh của người Do Thái ở đó có Núi Đền (Temple Mount) là nơi ngôi đền mà Tổ phụ Abraham của họ đã dựng lên. Phía dưới là Bức Tường Than Khóc là một di tích của ngôi đền Do Thái thứ hai. Đây là nơi thiêng liêng nhất để người Do Thái đến cầu nguyện.

Cũng trong Thành cổ Jerusalem có nhà thờ Mộ Thánh Holy Sepulchre, địa điểm thiêng liêng của người Kitô giáo, được xây ở nơi chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá và được khâm liệm.

Đối với người Hồi Giáo, đây cũng là một địa danh thiêng liêng với nhà thờ Al-Aqsa có mái vòm bạc. Theo truyền thuyết, khu vực này là nơi mà Tiên tri Muhammad đã đến truyền giáo. Và nổi bật nhất là đền thờ Mái vòm (Dome of the Rock) dát vàng tráng lệ được dựng trên khối đá nơi Muhammad thăng thiên. 

Xung đột giữa người Do Thái và người Palestine

Vào đầu thế kỷ thứ 20, vùng đất Palestine, nơi có thành phố Jerusalem, là thuộc địa của Đế quốc Anh, lúc đó vùng đất này được làm chủ bởi những người du mục Ả Rập gốc Palestine. Phong trào phục quốc Zyonnais của những người Do Thái lưu vong nỗ lực mua lại những vùng đất này từ những chủ đất Ả Rập và định cư người Do Thái ở đó với ý đồ lập lại một quốc gia cho người Do Thái. 

Những cuộc xung đột giữa người Palestine và người định cư Do Thái liên tục xảy ra  sau đó, với phần thắng luôn về người Do Thái.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Hiệp Quốc đã đề nghị tách vùng đất Palestine lúc đó thành ba thực thể: một quốc gia cho người Do Thái, một quốc gia Ả Rập Palestine, và thành phố phi quân sự Jerusalem như một “thể tách biệt” (corpus separatum), được đặt dưới sự quản lý của Liên Hiệp Quốc. Kế hoạch này được các nhà lãnh đạo Do Thái chấp nhận nhưng lại bị giới lãnh đạo Ả Rập bác bỏ. 

Sau khi người Anh rời vùng đất này thì chiến tranh Israel – Ả Rập Palestine bùng nổ. Người Do Thái đánh bại người Ả Rập Palestine và chính thức thành lập quốc gia Israel vào năm 1948, đặt thủ đô ở Tây Jerusalem, còn Đông Jerusalem lúc đó nằm dưới sự kiểm soát của Jordan. 

Sau đó, lập tức các quốc gia Ả Rập xung quanh giúp người Ả Rập Palestine tấn công quốc gia non trẻ Israel trong Cuộc chiến Sáu Ngày vào năm 1967. Người Do Thái lại đánh bại liên quân Ả Rập, và Israel lại chiếm luôn cả Đông Jerusalem cùng nhiều vùng đất khác của Palestine và sáp nhập vào lãnh thổ của họ. 

Năm 1980, Israel đưa ra một đạo luật lập quy chế Jerusalem là thủ đô “vĩnh viễn và không chia cắt được” của họ. 

Từ đó đến nay, các phong trào kháng chiến của người Palestine cố gắng đánh đổ người Do Thái nhằm giành lại đất đai của họ và vùng đất thánh Jerusalem qua những cuộc chiến đẫm máu nhưng đều bị thất bại. Phong trào Kháng chiến Hồi giáo (Hamas) không công nhận quốc gia Israel và luôn chủ trương toàn thể Jerusalem (không phân biệt Đông-Tây) là thủ đô của một quốc gia Palestine trong tương lai.

 Lập trường của cộng đồng quốc tế

Từ nhiều thập kỷ qua, cộng đồng quốc tế không thay đổi lập trường về quy chế của Jerusalem. Liên Hiệp Quốc không công nhận việc Israel sáp nhập Đông Jerusalem và tuyên bố đạo luật 1980 của Israel là vi phạm luật pháp quốc tế.

Nghị quyết 478 của Liên Hiệp Quốc năm 1980 kêu gọi các nước có cơ quan ngoại giao tại Jerusalem rời khỏi thành phố. Sau đó, khoảng 30 nước lần lượt chuyển trụ sở đến Tel-Aviv (thủ đô lâm thời của Israel). Costa Rica và Salvador là hai nước cuối cùng rời khỏi Jerusalem năm 2006. Theo lập trường của Liên Hiệp Quốc, quy chế cuối cùng của Jerusalem phải do các bên liên quan đàm phán.

Năm 1993, các thỏa thuận lịch sử Israel – Palestine được ký ở Oslo (Na Uy) giữa hai lãnh đạo Yitzhak Rabin và Yasser Arafat dưới sự bảo trợ của Bill Clinton đã không đề cập đến quy chế của Jerusalem, vấn đề về các khu chiếm đóng Do Thái trong các vùng đất Palestine và sự hồi hương của di dân Palestine, dù đây là ba chủ đề chính của tiến trình đàm phán hòa bình giữa hai bên. Hiện đây vẫn là những vấn đề nhạy cảm.

 Lập trường của Hoa Kỳ và ý đồ của Tổng thống Trump về Jerusalem

 Năm 1995, Tổng thống Bill Clinton đã ký một sắc lệnh công nhận: “Từ 1950, Jerusalem là thủ đô của nhà nước Israel”. Nghị Viện Mỹ cũng thông qua Đạo luật Đại sứ quán Jerusalem (Jerusalem Embassy Act). Để đạo luật này được áp dụng, sứ quán Mỹ, hiện đang ở Tel-Aviv giống như đa số các nước công nhận Nhà nước Israel, phải được chuyển đến Jerusalem. Tuy nhiên, có một điều khoản trong luật này cho phép tổng thống Mỹ đương nhiệm hoãn thời hạn áp dụng.

Cứ 6 tháng một lần, ba người tiền nhiệm Bill Clinton, George W. Bush, và Barack Obama ký vào điều khoản hoãn áp dụng luật. Tổng thống Mỹ đương nhiệm Donald Trump (nhiệm kỳ 1) miễn cưỡng ký vào điều khoản này lần đầu tiên vào tháng 06/2017. Cuối cùng, ngày 06/12/2017, Tổng thống Trump công nhận Jerusalem “là thủ đô không thể chia cắt được của Nhà nước Israel”, theo đúng tuyên bố trong thời gian ông vận động tranh cử.

 Chuyển sứ quán Mỹ về Jerusalem
Theo tác giả Pierre Barbancey trên nhật báo L’Humanité (05/12/2017), ký quyết định chuyển sứ quán Mỹ đến Jerusalem là một yếu tố trong kế hoạch mới của chính quyền Mỹ nhằm giải quyết “cuộc xung đột Israel – Palestine”. Và quan trọng hơn là nhằm mở đường để Washington thực hiện mục tiêu cuối cùng là đối đầu với Iran. Đối phó với Iran cũng là mục tiêu của Israel cùng với nhiều nước Ả Rập khác, mà đứng đầu là Ả Rập Xê Út.

Theo kế hoạch này, một nhà nước có thể sẽ được trao cho người Palestine trên một phần Cisjordanie và trên dải Gaza nhưng hai phần này không được kết nối với nhau. Thêm vào đó là khoản trợ giúp 10 tỉ đô la để xây dựng nhà nước này. Tuy nhiên, hai chủ đề về đàm phán quy chế của Jerusalem và quyền hồi hương của di dân Palestine bị trì hoãn vô thời hạn. Phía Mỹ chịu trách nhiệm đàm phán với Israel. Có lẽ vì thế mà hình thành ý tưởng công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel.

 Trước mắt, thế giới phản đối quyết định của Donald Trump. Còn “các nước Hồi Giáo bị chia rẽ dường như đang trở nên đoàn kết” trước quyết định về Jerusalem của tổng thống Mỹ, theo nhận xét trên Website Libération (06/12/2017). Nhiều lãnh đạo Hồi Giáo trong vùng bắt đầu chạy đua để thể hiện là người bảo vệ Jerusalem.

 Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan, với tư cách là chủ tịch luân phiên của Tổ Chức Hợp Tác Hồi Giáo gồm 57 nước, đã mời các thành viên họp thượng đỉnh đặc biệt tại Istanbul vào ngày 13/12/2017. Jordan cũng yêu cầu Liên Đoàn Ả Rập tổ chức họp khẩn ngoại trưởng của 22 nước thành viên vào thứ Bảy 09/12/2017. 

Là người gìn giữ hai thánh địa Hồi Giáo đầu tiên (Mecca và Medina), vua Salman của Ả Rập Xê Út cũng không muốn để bất kỳ nước nào vượt qua. Tuy nhiên, đồng minh chính của Donald Trump tại Trung Đông lại rơi về thế khó xử và mới chỉ đưa ra những lời cảnh báo nhẹ nhàng về “bước đi nguy hiểm của Washington” có thể khiến “người Hồi Giáo giận dữ”. Ả Rập Xê Út cũng muốn liên minh với Israel để chống lại kẻ thù số 1 trong vùng là Iran.

Cuối cùng, Iran cũng tranh thủ cơ hội để cạnh tranh với các quốc gia theo hệ phái Sunni khác trong việc bảo vệ Jerusalem. Tổng thống Hassan Rouhani khẳng định là Iran “sẽ không dung thứ cho việc xâm phạm các thánh địa” và kêu gọi “người Hồi Giáo phải đoàn kết trước âm mưu lớn này”.

Hiện nay (tháng 7, năm 2025) chiến tranh giữa Israel và thế lực khủng bố Hamas ở dải Gaza vẫn chưa đến hồi ngã ngũ. Tương lai của Gaza và thành phố Jerusalem vẫn còn trong giai đoạn “hạ hồi phân giải”.

You may also like

Verified by MonsterInsights