Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 5 – Sự phát triển của chữ quốc ngữ

by Tim Bui
Chữ quốc ngữ, chữ nước ta, kỳ 5 - Sự phát triển của chữ quốc ngữ

TRẦN NHẬT VY

Trong suốt thế kỷ 17, chữ quốc ngữ gần như đã có dấu âm, và một ít dấu chấm câu. Song so với thế kỷ 18-19 sau đó thì vẫn còn thiếu khá nhiều và còn nhiều dấu vết của những cách ghi âm cổ như tl, bl, ml, oũ, gn… 

Một trăm năm sau, qua thế kỷ 18, chữ quốc ngữ phát triển mạnh hơn, đặc biệt là ở Nam Kỳ, vùng đất mới được các chúa Nguyễn phát triển. 

Cuối thế kỷ 17, năm 1698, chúa Nguyễn đã hình thành và chính thức đưa vùng đất Gia Định, nay là các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ, vào bản đồ đất nước. Đây là vùng đất mới với nhiều sự tự do nhất định cho đạo Thiên Chúa so với những vùng khác ở miền Bắc và Trung. Đất mới, chính quyền mới, người tứ xứ họp quần nên chính quyền còn lơi lỏng trong việc cấm đạo. Sự tự do này đã giúp cho chữ quốc ngữ phát triển mạnh mẽ dù vẫn còn “hoạt động bí mật” tức chỉ phổ biến trong các giáo xứ, giáo dân, các nhà thờ, tu viện. Hầu hết các tu sĩ, giáo sĩ đạo Thiên Chúa người Việt hay người ngoại quốc đều biết chữ quốc ngữ và nói được tiếng Việt. Một số thầy giảng người Việt của đạo này cũng viết và đọc được chữ quốc ngữ. Có thể nói rằng thế kỷ này là thời kỳ vàng của chữ quốc ngữ và của đạo Thiên Chúa ở Việt Nam kéo dài từ cuối thế kỷ 17 cho đến nửa đầu thế kỷ 18.

Qua nửa sau thế kỷ 18 dù việc cấm đạo hay còn gọi là Bách hại, Bách đạo vẫn tiếp tục, nhưng chiến tranh giữa Nguyễn Ánh và lực lượng Tây Sơn kéo dài đến tận đầu thế kỷ 19, cũng giúp cho đạo Thiên Chúa có điều kiện phát triển rộng khắp Nam Kỳ. Thêm vào đó, chúa Nguyễn Ánh đã nhờ vả nhà thờ Thiên Chúa mà đứng đầu là giám mục Bá Đa Lộc nên việc Bách hại gần như không có. Trong điều kiện ấy chữ quốc ngữ ngày càng thịnh và hoàn chỉnh nhiều hơn, đồng thời cũng được phổ biến rộng hơn trong giáo dân dù trong dân gian khi ấy nói chung vẫn chưa coi chữ quốc ngữ là của người Việt mà vẫn coi đó là thứ “chữ của người ngoại quốc,” của “đạo Thiên Chúa.” Dù ngày nay, chúng ta chưa tìm được những tài liệu để chứng minh, nhưng rất có thể là thời gian này đã có nhiều sách đạo bằng chữ quốc ngữ lưu hành trong các xứ đạo. 

Và trong thời gian này, giám mục Bá Đa Lộc đã tập họp được khá nhiều chữ mới, so với những chữ đã có thời tiền cũng như sau Đắc Lộ, để viết một cuốn tự điển mang tên Tự vị Annam-Latin vào hai năm 1772-1773.

Thời gian này, ông đang ở Pondichéry, Ấn Độ sau một chuyến hải hành khó khăn từ Hòn Đất, Việt Nam do bị quân Xiêm cướp và rượt. Cuốn tự vị này là bản chép tay và là nguồn để sau đó gần 100 năm, linh mục Taberd soạn lại và in ở Ấn Độ một cuốn tự điển được mang tên là Tự điển Taberd. Rất nhiều năm sau này tới tận đầu thế kỷ 21, người ta vẫn cho rằng cuốn tự vị chép tay của Bá Đa Lộc đã bị tiêu hủy trong một trận hỏa hoạn tại chủng viện Cà Mau. Song vào thập niên 1980, người ta đã tìm được một bản chép tay cuốn tự vị này trong kho lưu trữ của Hội truyền giáo Nước ngoài Paris và truyền bá ra. Đây là cuốn tự điển chữ quốc ngữ thứ hai được soạn và là cuốn tự điển cho thấy sự phát triển của chữ quốc ngữ sau hơn 100 năm “ẩn mình.”

Tự vị Annam-Latin là cuốn tự điển tiếng Việt ghi chép chữ quốc ngữ phổ biến ở Đàng Trong, tức miền Nam sau này. Tự vị bắt đầu bằng chữ Nôm, rồi tiếng Việt và giải nghĩa bằng tiếng Latin. Sự xuất hiện cuốn sách này cho thấy sự phát triển của chữ quốc ngữ ở miền Nam nước ta khác khác xa với tiếng Việt ở đồng bằng miền Bắc. Đồng thời cho thấy người Việt ở miền Nam đã tìm cách “Việt hóa” rất nhiều thứ tiếng khác nhau như Trung Hoa, Khmer, Chàm…

Năm 1999, linh mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên đã dịch và Nhà xuất bản Trẻ ở Saigon đã in ra 1000 bản với giá bán 75 ngàn đồng/cuốn [khoảng 16 Mỹ kim]! Đây là cuốn tự vị ít người chú ý hoặc biết đến, trừ giới nghiên cứu tiếng Việt. Không rõ số bán ra được bao nhiêu nhưng khác với nhiều cuốn tự vị, tự điển khác, cho tới nay chưa thấy nhà xuất bản này “tái bản” tự vị này lần nào. Khi đưa in cuốn này, ông Hồng Nhuệ đã lược bỏ tất cả những chữ Nôm và chỉ dịch phần chữ Latin ra tiếng Việt mà không kèm theo nguyên bản gốc khiến giá trị của tự vị bị mất đi rất nhiều.

Trước hết, có lẽ cần phải nói một chút về giám mục Bá Đa Lộc.

Bá Đa Lộc tên thật là Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine, thường được viết là Pigneau de Behaine (1741-1799) là giám mục Đại diện Tông tòa Đàng Trong, hiệu tòa Adran nên cũng thường được các sách sử gọi là Giám mục Adran hoặc cha Cả. Nhờ công lao giúp đỡ Nguyễn Ánh ông còn được vua Gia Long sắc phong là Bi Nhu quận công, một tước hiệu cao quý của nhà Nguyễn. Bá Đa Lộc là tên Việt theo cách gọi Pierre của tiếng Hán.

Thời trẻ, ông học trường dòng và được đào tạo để trở thành một nhà truyền giáo ở hải ngoại của Hội Thừa sai Paris (Séminaire des Missions Étrangères). Ông rời Pháp từ cảng Lorient vào tháng Mười Hai năm 1765 với sứ mạng truyền giáo tại Đàng Trong. Ngày 21 tháng Sáu năm 1766, ông cập cảng tại Pondicherry. Sau đó, ông có vài tháng lưu trú tại Ma Cau và có vài lần đến Hà Tiên bắt liên lạc với những người truyền giáo đi trước tại đây. Tháng Ba năm 1767, ông đặt chân đến Hà Tiên với chức vụ giáo sư trong chủng viện của Hội Thừa Sai tạm đặt cơ sở tại Hòn Đất (gần Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang ngày nay).

Một trang Nam Việt dương hiệp tự vị của Jean-Louis Taberd xuất bản năm 1838

Ngày 11 tháng Mười Hai năm 1769, dù đã trở thành linh mục giám đốc chủng viện Hòn Đất, khi chủng viện Hòn Đất bị quân Cao Miên cướp và đốt cháy, Bá Đa Lộc phải rời khỏi Đàng Trong cùng với linh mục Morvan và 13 nhân viên chủng viện để đi đến Malacca đến Pondichéry, nơi đã có nhiều cơ sở thương mại và hành chánh của Pháp từ năm 1673.  

Năm 1771 ông được Giáo hoàng Clêmentê XIV tấn phong làm Giám mục hiệu tòa Adran và đồng thời được bổ nhiệm ông làm Giám mục Tông tòa, phụ tá cho Giám mục Guillaume Piguel. Nhưng cũng trong năm ấy, Giám mục Piguel qua đời ngày 21 tháng Sáu, Pigneau de Behaine thay thế Piguel rồi được bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa tại Madras ngày 24 tháng Hai năm 1774 (Madras được đổi tên là Chennai năm 1996, là một hải cảng nằm trên bờ biển đông nam Ấn Độ tại vịnh Bengal), và ông lên đường trở lại Đông Dương ngày 12 tháng Ba năm 1775 với chức vị Giám mục Đại diện Tông tòa Đàng Trong. Về đến chủng viện Pram Bey Chhom trên một hòn đảo của sông Mekong ở tỉnh Kongpong-Soai, do Giám mục Piguel ra lệnh xây dựng từ đầu năm 1770, Giám mục Pigneau de Behaine ra lệnh di chuyển chủng viện Pram Bey Chhom từ Cao Miên về Việt Nam. Trong thời gian ở Pondicherry, ông tiếp tục trau dồi và trở nên thông thạo cả tiếng Hoa và tiếng Việt. Năm 1772, ông bắt tay biên soạn một bộ từ điển Việt-Latinh Dictionarium Anamitico-Latinum.

Thời ấy, các linh mục cải trang làm đủ thứ nghề: thợ mộc, thợ nề, thợ đóng cối xay, thầy lang, bán thuốc thậm chí gánh nước thuê, người đi câu, lái buôn… để truyền đạo, thậm chí có lúc các giáo sĩ đào tạo chủng sinh trên các thương thuyền. Các chủng viện thời đó là nhà tranh vách đất thiếu thốn mọi thứ, thường di chuyển nơi này qua nơi khác, chủng sinh học đạo bằng tiếng Latin các môn như: luân lý, giáo luật, giáo sử, Thiên Chúa giáo, địa lý, toán pháp căn bản, và thiên văn học, nhưng việc học tập khó khăn vì thiếu sách vở và tự điển, và họ sống trong lo sợ bị cấm đạo. Việc truyền đạo cũng khó khăn do ngôn ngữ bất đồng. Những chữ quốc ngữ mà các giáo sĩ tiền bối để lại chưa đủ để các giáo sĩ giao tiếp với người bản địa, đặc biệt là sự khác biệt về tiếng nói của miền Nam và các miền khác.

Năm 1777, vương tôn Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn rượt chạy ra đảo Thổ Chu và gặp Bá Đa Lộc tại đây. Nhận định đây là một cơ hội tốt để thúc đẩy quá trình truyền giáo, ông đã tiếp cận và thuyết phục Nguyễn Ánh tìm kiếm sự giúp đỡ từ nước Pháp. Đây chính là nước cờ chính trị mạo hiểm của Bá Đa Lộc, và ông dần thiên nhiều hơn vào vấn đề chính trị hơn là vấn đề truyền giáo. Sau khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ rút về Quy Nhơn, tháng Mười Một năm 1777, Nguyễn Ánh trở về Long Xuyên, chiêu mộ binh tướng, lần lượt chiếm lại Sa Đéc, Long Hồ, Gia Định… đẩy quân Tây Sơn đến Bình Thuận. Năm 1778, Nguyễn Ánh được các tướng tôn làm Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính. Ông nhanh chóng tổ chức cai trị, xây dựng chiến lũy phòng thủ và củng cố lực lượng thủy bộ, đặt liên hệ ngoại giao với Xiêm La và chiếm Chân Lạp, biến quốc gia này thành chư hầu năm 1779. Nhiều biện pháp chính trị của ông được thực hiện dưới sự cố vấn của Bá Đa Lộc.

Tháng Giêng năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương. Cùng năm, Bá Đa Lộc, với sự giúp đỡ của một nhà phiêu lưu người Pháp là Manuel (phiên âm là Mạn Hòe), đã vận động trang bị cho một số đội quân của chúa Nguyễn bằng các loại vũ khí mới của Bồ Đào Nha, trong đó có cả ba chiếc tàu chiến kiểu Tây phương. Manuel được Nguyễn Vương phong chức Cai cơ, chỉ huy đội binh thuyền này. Năm 1781, quân chúa Nguyễn lên đến khoảng ba vạn người với 80 chiến thuyền đi biển, ba thuyền lớn và thêm hai tàu của các lính đánh thuê Bồ Đào Nha do Bá Đa Lộc mời được. Chúa Nguyễn dùng đội quân này tấn công quân Tây Sơn đến tận Phú Yên nhưng sau cùng phải rút chạy vì gặp bộ binh rất mạnh của Tây Sơn.

Tháng Ba năm 1782, quân Tây Sơn Nam tiến. Tại sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ, thủy quân Tây Sơn đụng trận với thủy quân Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền Tây Sơn yếu hơn, nhưng họ vẫn giành được phần thắng. Đội tàu Tây phương bị đánh chìm, Manuel tử trận. Nguyễn Vương và Bá Đa Lộc phải bỏ chạy ra Phú Quốc. Thấy Nguyễn Ánh đã không còn sức phản kháng, anh em Tây Sơn rút quân về Quy Nhơn. Tuy vậy, quân chúa Nguyễn lại tiếp tục trỗi dậy. Tháng Mười năm 1782, Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc chiếm lại Gia Định, một mặt tổ chức quân đội, mặt khác ủy thác cho Bá Đa Lộc chuẩn bị trước thuyền bè để khi Tây Sơn đến có đường mà đi.

Tháng Hai năm 1783, quân Tây Sơn lần nữa Nam tiến và dễ dàng phá tan các tuyến phòng thủ của quân chúa Nguyễn. Một lần nữa, chúa Nguyễn và Bá Đa Lộc phải đào thoát ra Phú Quốc.  

Tháng Mười Một năm 1783, Bá Đa Lộc sang Xiêm La vận động vua Chất Tri giúp chúa Nguyễn. Tháng Hai năm 1784, Nguyễn Ánh cũng sang Xiêm và được vua Xiêm cho một đội quân kéo sang đánh Tây Sơn. Tuy vậy, đội quân viện binh gồm ba vạn lính này bị quân Tây Sơn đánh cho tan nát trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút vào tháng Giêng năm 1785. Nguyễn Ánh lại phải đào thoát sang Xiêm.

Sau thất bại này, Bá Đa Lộc tiếp tục khuyên Nguyễn Ánh rằng: đừng chỉ trông cậy vào người Xiêm mà nên tìm cách vận động cả nước Pháp cử viện binh giúp sức. Nguyễn Vương đồng ý, giao Hoàng tử Cảnh đi cùng Bá Đa Lộc đi tìm kiếm sự viện trợ từ phương Tây. Tháng Mười Một năm 1784, Bá Đa Lộc lên tàu biển rời Việt Nam.  

Sau khi Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh yết kiến Pháp hoàng Louis XVI và thương nghị với Bộ Ngoại giao Pháp, ngày 21 tháng Mười Một năm 1787, Hiệp ước Versailles được ký bởi Armand Marc, bá tước Montmorin, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Hải quân, và Bá Đa Lộc, Đặc sứ của Nguyễn Ánh. Theo hai điều khoản chính của hiệp ước, thì vua Louis XVI hứa sẽ giúp đỡ Nguyễn Ánh để lấy lại ngôi vị, bằng cách cung cấp 1.650 quân (1.200 lính bộ binh, 200 lính pháo thủ và 250 lính da đen Cafres) và 4 chiến hạm. Đổi lại, Nguyễn vương sẽ nhường hẳn đảo Côn Lôn (người Pháp ghi là Pulo-Condore), đồng thời cho Pháp thuê cảng Đà Nẵng (người Pháp ghi là Tourane) với giá ưu đãi, kèm theo độc quyền kinh doanh.

Tuy nhiên hiệp ước không thực thi được do Cách mạng Pháp nổ ra cũng trong tháng đó, vua Louis XVI bị lật đổ. Chính quyền mới của Pháp không gởi quân đội giúp.

Do đó, Bá Đa Lộc đã tự quyên góp tiền từ các thương gia có ý định đặt cơ sở buôn bán ở Đại Việt cùng với số tiền 15.000 franc Pháp của gia đình mình để mua vũ khí, thu nạp được 350 lính và 20 sĩ quan Pháp giúp Nguyễn Ánh. Tháng Bảy năm 1789 1789, Bá Đa Lộc cùng Hoàng tử Cảnh về đến Gia Định, sau bốn năm tám tháng rời khỏi Việt Nam. Năm 1890, Nguyễn Vương chiếm lại được Gia Định và cho xây thành Gia Định. Cùng thời gian đó, Nguyễn Vương cất một tòa giám mục bằng gỗ ở trước chợ Bến Thành, nay là khu Bảo tàng lịch sử trong Thảo cầm viên Saigon. Đây là nơi Bá Đa Lộc ở và hành lễ. Sang thời Pháp thuộc tòa giám mục phải dời đến khu vực nay là Sở ngoại vụ, rồi sau đó dời về tòa Tổng giám mục Sài Gòn số 180 đường Richaud, nay nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn, đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3. Do cả tòa nhà đều bằng gỗ ván, lợp ngói âm dương sau hai thế kỷ chịu đựng nắng mưa đã xuống cấp trầm trọng. Khoảng năm 2000, do quá xuống cấp tòa nhà đã được xây lại tường bằng bê tông, dù dáng dấp vẫn như cũ.

Tòa giám mục của Bá Đa Lộc trong khuôn viên Tòa Tổng giám mục Sài Gòn hiện nay số 180 Nguyễn Đình Chiểu, quận 3

Trong cuộc vây thành Quy Nhơn đánh quân Tây Sơn năm 1799, Giám mục Bá Đa Lộc ở trong quân bệnh nặng và mất. Trong tang lễ của ông vào tháng Mười Hai năm 1799 ngoài các đội binh thị vệ khoảng 12 ngàn người, còn có khoảng 40 ngàn người đưa tang, cả Gia Long và Hoàng tử Cảnh đều đích thân đọc điếu văn ca ngợi công lao. Đây là đám tang có thể nói lớn nhất, đông người đưa tang nhất ở đất Sài Gòn-Gia Định. Một bức thư đề ngày 24/4/900 được lưu trữ trong Văn khố Hội truyền giáo Paris ghi nhận về lễ tang này như sau “Nhà vua đã cử Đông cung Cảnh điều khiển đám tang khởi hành vào khoảng 2 giờ đêm. Quan tài được phủ bằng tấm vóc lộng lẫy và đặt trong nhà táng hai tầng, mỗi tầng cắm 25 cây đèn cầy, tất cả đ8ạt trên một chiếc kiệu đẹp dài chừng 20 bộ do 80 người khiêng…” [Vai trò của Giám mục Bá Đa Lộc đối với Nguyễn Ánh, linh mục Hoàng Cao Khải, tiểu luận cao học sử, viện đại học Huế, 1974, trang 177]. Do khi còn sống, ông muốn xây một căn nhà mát ở làng Chí Hòa gần làng Tân Sơn Nhất, tỉnh Gia Định, nên khi ông mất Nguyễn Vương đã xây lăng mộ của ông tại nơi này và được dân chúng kêu là Lăng Cha Cả. Lăng mộ này đã bị chính quyền Việt Nam giải tỏa năm 1983, nay nơi đây mang tên là vòng xoay Lăng cha Cả.    

Giám mục Bá Đa Lộc

Về cuốn tự vị mà Bá Đa Lộc viết khi ấy chính là nhằm vào việc “truyền đạo cho dễ dàng.” Thuở ấy, dù có chiến tranh nhưng việc cấm đạo của chúa Nguyễn vẫn còn hiệu lực. Do đó, để truyền đạo các giáo sĩ phải lén lút cải trang thành nhiều dạng người để gặp dân chúng. Song rào cản lớn nhất vẫn là tiếng nói! Hầu hết giáo dân tân tòng đều không biết chữ quốc ngữ nên các giáo sĩ gặp khó khăn trong việc truyền đạt kinh sách và những bài học khác thuộc về thần học, thiên văn học, toán học… Những người biết chữ quốc ngữ thì đa phần là những chữ có thời Đắc Lộ không gần với tiếng nói của người bản địa miền Nam. Do vậy, trong giao tiếp để truyền đạo cần có một cuốn sách dạy tiếng Việt mới hơn, gần hơn với những gì người nó hàng ngày. Và cuốn tự vị ra đời nhằm để các giáo sĩ có tài liệu thực tế để dạy chữ quốc ngữ trong khi nhiều tài liệu khác bằng chữ quốc ngữ đã bị hỏa thiêu trong các cuộc cướp bóc, đốt phá của quân Miên.

Cuốn sách này chỉ được viết tay chưa in và có lẽ đã được các giáo sĩ chép lại thành nhiều bản. Trong số đó có bản được giáo sĩ Taberd giữ được để sau này 1838, in ra với tên tự điển Taberd với tên Nam Việt dương hiệp tự vị.

Nội dung chính của tự vị này là tiếng Đàng Trong gồm 64 trang bảng tra chữ Nôm kèm theo chữ quốc ngữ, ba trang tóm tắt bảng tra chữ Nôm. Từ trang 69 đến trang 729 là phần tự vị được viết từ tháng Chín năm 1772 đến tháng Sáu năm 1773. Đây là cuốn tự điển tiếng Việt thứ hai sau Việt-Bồ-La của Đắc Lộ.

Đây cũng là tự điển tiếng Đàng Trong đầu tiên, ghi chữ Nôm, chữ quốc ngữ và giải thích bằng tiếng Latin. Tự vị cũng có khá nhiều câu ngạn ngữ, thành ngữ được viết bằng chữ quốc ngữ và chữ Nôm. Trong tự vị, Bá Đa Lộc đã gạt bỏ những những chữ như Bv, thay TL bằng TR, ghi phụ âm Bv bằng V…Nhiều địa danh ông ghi giống như ngày nay như Ba Thắc, Thủ Đức, Ba Lạch, Đồng Nai, Cái Mơng, Hòn đất, Long Hồ…Chỉ một chữ có thể ông lầm là chữ DỪA. Trong tự vị ông viết Dừa Lòng, Dừa Ý, Dừa Nước… Đặc biệt, cuốn Annam-Latin của Bá Đa Lộc ghi nhận rất nhiều câu ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ mà trước đây không có. Chúng ta ngày nay có thể tìm thấy các câu “ba chìm bảy nổi,” “Ba lừa bảy lọc,”trông trăng bạc, nguyền cùng đầu bạc, sao đầu chưa điểm bạc, nguyền xảy nên phận lẻ loi” là một lời trách ai đó sai lời đã hứa. Hoặc những câu ngày nay  vẫn còn thông dụng như “cao bay xa chạy” ý chỉ chạy trốn, “buôn mây bán gió” chỉ sự gan tham, xảo quyệt; “buôn may bán đắt,” “sang giàu chi bằng thanh nhàn…” Chúng tôi tìm được hàng trăm câu như vậy trong Annam-Latin của Bá Đa Lộc. 

Có thể nói rằng, dù có nhiều sóng gió, chữ quốc ngữ vẫn tồn tại và phát triển. Khi vô tới miền Nam, chữ quốc ngữ đã có hình dạng khác và hoàn chỉnh hơn thời của Đắc Lộ. Nhiều địa danh thời Đắc Lộ chỉ ghi tóm tắt tới Ba Đa Lộc thì rộng hơn, nhiều hơn và rõ ràng hơn. Những điều đó cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của chữ quốc ngữ ở miền Nam, đặc biệt là đất Gia Định Thành, so với các miền khác trong nước ta. Cũng xin lưu ý, Gia Định Thành rất khác với Thành Gia Định. Gia Định Thành là vùng đất kéo dài từ giáp Bình Thuận cho tới mũi Cà Mau. Còn Thành Gia Định là cái thành do Nguyễn Ánh xây năm 1790 tại thị tứ Bến Nghé, phủ Tân Bình nay là khu vực trung tâm của thành phố HCM.

Ghi chú

Những chi tiết về Bá Đa Lộc trong bài viết này tham khảo từ tiểu luận cao học sử “Vai trò của Giám mục Bá Đa Lộc đối với Nguyễn Ánh (1784-1799)” của linh mục Hoàng Cao Khải (Nguyễn Đức Tiến) đệ trình năm 1974 tại trường Đại học Văn khoa, đại học Huế.

(còn tiếp)

Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/chuyen-bao-chi-sai-gon-xua-ky-18-cao-van-chanh-chu-but-nhat-bao-o-tuoi-18/

You may also like

Verified by MonsterInsights