Những lần đón Tết 

by Tim Bui
Những lần đón Tết

YẾN TUYẾT

Mỗi người Việt chúng ta đều có những kỷ niệm riêng về Tết. Riêng tôi, khi sửa soạn đón Tết ở một nơi cách xa quê hương ngàn dặm như lúc này, tôi thường nhớ lại những cái Tết yêu dấu đã qua nhưng vẫn còn nằm yên trong trí tưởng.

Suốt thời niên thiếu cho đến tháng Tư 1975, tôi may mắn sống ở Saigon dù chiến tranh đang diễn ra khốc liệt ở khắp nơi nhưng lại xa thành phố.

Lúc đó, cho dù các anh rể, hai ông anh ruột và một số bạn bè tôi đều ở trong nhà binh nhưng vì không khí ở thành phố khi nào cũng yên ổn nên có lúc tôi đã quên đi thực tế, và cứ tưởng như mình đang được sống trong một xứ sở thanh bình. 

(Bây giờ mỗi khi nhìn lại quá khứ, tôi mới biết mình được hưởng một đời sống an toàn như vậy là nhờ biết bao nhiêu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh chiến đấu ngoài tiền tuyến để bảo vệ cho hậu phương, nơi tôi sống được an toàn).

Cũng vì từng sống một cách hồn nhiên như vậy cho nên trước khi chế độ Cộng sản nắm quyền ở miền Nam, mỗi khi nhớ về Tết, tôi thường thấy hiện ra những hình ảnh vui tươi và rộn ràng.

Nào là việc năm nào ba tôi cũng hớn hở dẫn tôi đi chợ hoa rất sớm để mua mấy cây hoa đào, hoa mai, hoa cúc về chưng trong nhà. Ông cụ cũng rất thích có một chậu Thủy Tiên bày trong phòng khách cho trang nhã.

Trong khi đó Mẹ tôi bận rộn đi chợ và sắp xếp cho chị người làm đãi nếp, ngâm đậu xanh, ướp thịt, để sửa soạn cho ngày gói bánh chưng, bánh tét trước Tết.

Tối 28, 29 Âm lịch, cái nồi to như cái thùng phuy chất đầy mấy chục cái bánh chưng, bánh tét, được đun bằng củi sôi lên sùng sục từ buổi chiều. Cứ thế nồi bánh được nấu qua đêm để sáng hôm sau những cái bánh truyền thống phải có trong ba ngày Tết ấy sẽ được treo từng hàng dài cho khô ráo để dành cúng ông bà, tặng bạn bè hay ăn dần trong suốt mấy ngày lễ Tết.

Những hũ dưa món cũng đã được làm xong từ cả tháng trước, sắp hàng đẹp mắt trên tủ với màu sắc trắng của những miếng đu đủ và củ cải trắng, miếng ớt chen với miếng cà rốt màu cam, ngâm mình trong lọ nước mắm ngon màu nâu được sên kỹ với đường trước đó.

Sau khi ăn xong, mấy anh chị em chúng tôi rủ thêm vài người bạn đến nhà ngồi canh nồi bánh chưng cho đến khuya.

Sau khi ông anh kế tôi nhập ngũ rồi từ Pleiku được thuyên chuyển về Bình Dương gần nhà hơn, ông H hay về thăm gia đình dịp Tết. Có khi bên nồi bánh chưng, ông anh tôi đàn guitar, hát nhỏ một bài hát mới của Phạm Duy hay của Trịnh Công Sơn cho tụi tôi nghe.

Chúng tôi đã có những buổi tối êm đềm như thế, khi chờ tiễn đưa năm cũ trong không khí se lạnh êm đềm, bên ánh lửa bập bùng của nồi bánh chưng. (Tết Ất Mão năm 1975 là cái Tết cuối cùng ghi lại hình ảnh dễ thương đó, năm đó cũng là năm tuổi con Mèo của tôi!)

Tôi còn nhớ thêm môt kỷ niệm cũ ở căn bếp nhỏ trong căn nhà của mình ở cư xá Lữ Gia Phú Thọ vào dịp Tết là hình ảnh những chảo mứt gừng, mứt khóm, mứt dừa vàng ngậy đang được đảo qua lại, thơm lừng. Nơi ấy đôi khi tôi lẻn vào, nhón tay gắp một miếng mứt nóng hổi và thú vị vừa thổi, vừa ăn.

Buổi chiều 30, gia đình các chị tôi đem con cái về dự lễ cúng ông bà. Sau đó, cả nhà tụ họp đông đủ, ăn uống, cười đùa vui vẻ.

Tối Giao thừa sau khi dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ xong, mẹ tôi sửa soạn bàn thờ cúng Giao Thừa với hoa quả, nhan đèn bánh chưng và mứt. Đúng 12 giờ đêm, bà đứng trước bàn thờ được bày ở sân trước, thắp hương đèn và khấn vái phật trời và ông bà phù hộ cho gia đình có được một năm mới được an vui.

Sáng mùng Một Tết, ba tôi khi nào cũng dậy thật sớm, mặc bộ đồ vest tươm tất, ra cửa trước đốt một phong pháo để màu đỏ và tiếng pháo nổ rộn rã đem may mắn và vui tươi đến cho gia đình.

Cũng vào buổi sáng đầu năm đó, tụi tôi thay áo quần mới, cùng các anh chị và gia đình tụ họp lại để chúc Tết ba mẹ tôi và sau đó sẽ đi chùa xin lộc đầu năm.

Tôi nhớ mãi những lời giáo huấn đầu năm của ba tôi nhắc nhở anh chị em tôi sống hòa thuận và thương yêu nhau, cho dù lúc đó chúng tôi đều đã trưởng thành.

Những cái Tết vui và đầm ấm như thế biến mất sau 30/4/1975 vì chế độ Cộng sản đã gây ra những chia ly và mất mát. Họ áp đặt những cuộc trả thù trên đời sống dân chúng và quân lính miền Nam ngay sau khi nắm chính quyền.

Cho nên với tôi, Tết Bính Thìn trong năm 1976 là một cái Tết buồn nhất vì gia đình nào cũng có người thân di tản hay bị đi tù Cộng sản. Ba mẹ tôi mất tinh thần sau khi tin tức của ông anh trai lớn của tôi biệt tăm. Tiếp theo là việc con trai thứ nhì và bốn ông con rể đều bị đi học tập.

Sau vụ đổi tiền lần đầu, gia đình tôi chỉ có $200 đồng tiền mới vì đó là con số tối đa mỗi gia đình được đổi.

Kể từ tháng 5/1975, gia đình tôi không hề có lợi tức hàng tháng nữa vì tôi mất việc làm ở Đài Phát Thanh Saigon sau ngày 30/4, em gái tôi vẫn còn là sinh viên năm thứ Tư ở Đại Học Sư Phạm còn ba tôi thì cũng không còn được lãnh lương hưu của cựu công chức VNCH nữa.

Chung quanh tôi vào thời gian những năm đầu sau tháng 4/1975, dân chúng sống thê thảm quá vì phải bán dần vật dụng trong nhà để chỉ có thức ăn trên bàn.

Ngày mùng Một Tết năm Bính Thìn, gia đình chúng tôi vẫn tụ tập lại ở nhà ba mẹ tôi vì đó là truyền thống lâu năm của gia đình. Thế nhưng, thay vào những lời chúc vui là những những lời than thở và tiếng khóc sụt sùi vì lo sợ cho cảnh nghèo đói trong hiện tại và tương lai.

Những năm tiếp theo, chỉ hai bà chị tôi có việc làm ở nhà thương và ngân hàng để có một số lương nhỏ để tạm nuôi sống gia đình, thế nhưng lương không đủ sống, họ cũng cùng tôi và ba bà chị khác ra chợ trời mua đi, bán lại các đồ đạc linh tinh từ bàn ghế, tủ giường, cho đến áo quần vải vóc, thứ gì cũng mua bán để kiếm sống.

Những cái Tết sau đó thật buồn và tôi thật tình chẳng còn muốn nhớ để ghi lại.

Cho đến khi vượt biên vào cuối năm 1981 và đón Tết Nhâm Tuất năm 1982 ở trại tị nạn Phi Luật Tân, tôi mới thấy mình tìm lại một chút hương vị Tết dù là cái Tết trong trại tị nạn chứ không phải ở quê hương.

Ở trại tị nạn, chúng tôi được phát thức ăn tươi sống với gạo đường, nước mắm đậu xanh đầy đủ. Bên cạnh đó, Cao ủy Tị nạn cũng cho phép người tị nạn ở lâu kiếm tiền bằng cách mở quán cà phê hay làm bún, bánh tiêu.v.v… để bán cho nhau. Và dĩ nhiên, sinh hoạt tự do của trại ảnh hưởng đến việc người tị nạn nghĩ đến việc tổ chức màn đón Tết, mừng Xuân.

Bên cạnh đó, gần Tết, nhiều người được thân nhân từ Mỹ hay các quốc gia khác tiếp tế tiền bạc nên tài chánh cũng rủng rỉnh và có thể ra mua đồ ăn hay đồ dùng ở mấy cửa hàng tạp hóa do người Phi làm chủ, mở ra bán với giá cắt cổ.

Nhưng cũng nhờ mấy nhân viên Phi Luật Tân làm việc cho Cao ủy Tị nạn đưa người nhà vào để kiếm chác làm ăn, dân tị nạn chúng tôi mới có nơi để mua sắm tí đồ trang hòang vàng vàng , đỏ đỏ cho có vẻ Tết.

Người Việt mình thì đi đến đâu cũng chịu khó xoay sở làm ăn nên dù đón Tết ở trại tị nạn cũng có người làm bánh chưng, bánh tét bán cho đồng hương. Đêm trừ tịch cũng có văn nghệ do các tài tử chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp trình diễn trên cái sân khấu bỏ túi do một số thanh niên dựng lên.

Thế rồi, sáng mùng Một Tết, tôi được đánh thức bởi tiếng nhạc mừng Xuân phát ra inh ỏi từ các quán cà phê do những người có óc thương mại mở ra. 

Dân tị nạn phần lớn lấy mấy bộ áo quần cũ mà còn tươm tất do Cao ủy phân phát ra “diện” vào. Còn ai có thân nhân yểm trợ dồi dào thì đã ra chợ, thuê thợ may áo quần mới và dĩ nhiên, cũng phải “lên đồ” để đi vòng vòng trong cái làng tị nạn Bataan có tất cả 11 vùng, “giựt le” với bàn dân thiên hạ.

Chúng tôi đi tới, đi lui, đi lên, đi xuống chúc Tết nhau. Vì có nhiều thì giờ rảnh rỗi sau khi đi học Anh văn nên chúng tôi hay đi lang thang từ vùng 1 đến vùng 11 (trại tị nạn Bataan có 11 khu vực gọi là vùng) và thế nào cũng bất ngờ tìm thấy người quen và mừng không thể nào mà diễn tả cho hết!

Dịp Tết năm 1982, tôi gặp được một đàn anh ở trong Hướng Đạo và được anh lì xì cho con tôi tí tiền còm vì thân nhân anh gửi tiền sang tiếp tế mỗi tháng. Anh may mắn nhận được đều đều nên rất rộng rãi với các đoàn sinh cũ và đang nghèo như tôi.

Rồi cuối cùng, tôi được ông anh đón qua Mỹ định cư vào tháng 4/1982.

Và năm nay, tôi không thể nào tưởng tượng là mình sẽ đón Tết ở Mỹ lần thứ 42.

Sinh hoạt đón Tết của cộng đồng ở Hoa Kỳ và đặc biệt là ở quận Cam của California, nơi hãnh diện có khu Saigon nhỏ đầu tiên, qua gần 50 năm sau đã ấm cúng, rộn ràng, tưng bừng hơn nhiều so với những năm tôi mới sang Mỹ vào khoảng đầu thập niên 1980.

Mấy tuần trước Tết, đi trên những con đường phố chính của khu Little Saigon ở quận Cam, có lẽ bạn cũng như tôi, tràn ngập niềm vui và thấy lòng rộn rã vì không khí Tết mặc dù chúng ta ở xa quê hương ngàn dặm.

Dịp gần Tết, Little Saigon càng có đông người Việt đổ xô về mua sắm từ những thành phố lân cận. Con đường Bolsa vốn chật cứng xe cộ vào những ngày cuối tuần trong năm, đến những ngày cận Tết thì eo ơi, lại càng kẹt xe khủng khiếp!

Nhìn vào những chiếc xe hơi mới toanh, bóng loáng, gồm những trên hiệu nổi tiếng hay thông dụng BMW, Lexus, Infinity, Mercedes, Tesla… di chuyển trên đường ở khu vực Little Saigon và cách người Việt mình sắm Tết, dân chúng bản xứ có thể nghĩ rằng người Mỹ gốc Việt ai cũng ăn nên, làm ra và đều khá giả cả vì vẫn còn tiền để tiêu xài sau lễ Giáng Sinh (và điều đó có thể là sự thật, cho dù theo Cơ quan kiểm tra dân số thì số người Mỹ gốc Việt sống ở quận Cam phần đông có lợi tức rất thấp!)

Nhiều gia đình rộn ràng sửa soạn bữa cơm cúng ông bà chiều 30 và 3 ngày Tết.  Lễ Giao thừa cũng được một số gia đình bày biện tươm tất và không kém phần trang nghiêm. Gần đây, khu xóm tôi ở đêm Giao thừa có nhiều gia đình Việt Nam cũng đốt pháo đì dùng cho dù không được phép.

Nếu tối Giao thừa muốn tìm một chút hương vị Tết của đêm trừ tịch thì nhiều người đến một ngôi chùa hay nhà thờ nào đó với khung cảnh khói hương nghi ngút, tranh nhau hái lộc của thập phương. Nhưng quan trọng hơn hết là chúng ta có dịp nhìn thấy người đồng hương ở chung quanh đang xôn xao, rộn rịp, cười vui và biết là mình đang đón Tết. 

Nếu sống ở quận Cam, có thể nói những nhu cầu về Tết của chúng ta hầu như được đáp ứng đầy đủ.

Thức ăn thì nào là bánh chưng, bánh tét, nem chả, bánh mứt đủ loại, được sản xuất tại Mỹ hay nhập cảng từ Trung quốc, và Việt Nam. Rượu, trà thì tha hồ, có hàng trăm loại giá từ vài ba đô la cho đến cả mấy trăm Mỹ kim.

Và dĩ nhiên, nếu bạn yêu hoa thì sẽ có những loại hoa đến từ những nước xa lắc, xa lơ nào đó ở khắp nơi trên thế giới gồm có mai, lan, cúc, đào… đẹp tuyệt trần, chờ đón bạn rinh về nhà. 

Đặc biệt cây hoa Đào cũng có mặt trong sân rất nhiều căn nhà của các gia đình Việt Nam. Có những cái Tết, khi lái xe đi vòng vòng thành phố, thấy hoa Đào màu hồng hay đỏ, hoa mai vàng nở rộ trong sân nhà ai thì đoán mò nhà ấy người Việt mình và tự nhiên lòng thấy vui vui!

Năm nay mùng một Tết nhằm ngày Thứ Tư trong tuần nên sẽ bớt vui vì nhiều người còn phải đi làm nhưng đến cuối tuần dù mùng Bốn, mùng Năm Tết người ta cũng vẫn sẽ đi chùa và nhà thờ tha hồ đông vui, ồn ào.

Đối với mấy đứa trẻ con người Mỹ gốc Việt thì tụi nhỏ dĩ nhiên biết tập tục lì xì nên chỉ mong đón Tết Việt Nam vì phần lớn là sẽ nhận được tiền chứ không phải là quà như Giáng sinh nên hớn hở lắm! Thế nhưng, đổi lại, chúng cũng sẽ phải chuẩn bị lời chúc Tết sao cho trôi chảy bằng thứ tiếng rất Việt giới hạn, nhất là với các em sinh ra ở Mỹ.

Về thức ăn, không biết con cháu của các bạn thì sao chứ mấy đứa nhỏ trong gia đình tôi và nhiều trẻ khác mà tôi gặp thì hầu như chẳng thích món ăn nào của Tết Việt Nam cả:

“Ăn dưa chua, thịt đông không? Dạ thôi!”

“Bánh chưng, bánh tét nhé? Dạ không ạ.”

“Cắn thử mớ hạt dưa xem sao, thú lắm! Dạ, no thanks, ông, bà.”

Tết thì không thể không bàn ra, tán vào về cái áo dài Việt Nam. Phải nói là chúng ta rất hãnh diện khi thấy phụ nữ Việt Nam từ già đến trẻ dù sống ở Mỹ mà vẫn rất thích mặc áo dài vào dịp Tết.

Bây giờ nhiều người không phải về Việt Nam để may áo dài như trước mà chỉ cần ra khu thương xá Phước Lộc Thọ là có thể rinh về nhà những cái áo dài may sẵn giá từ $10 đến 100 môt cái. Áo dài may sẵn dù không đẹp như được đo cắt, nhưng nhìn chung cũng vừa vặn ra phết. 

Một cách chủ quan, tôi cho rằng áo dài Việt Nam đẹp nhất thế giới vì nó vừa thướt tha, vừa kín đáo, vừa khêu gợi.

Bây giờ các phụ nữ đứng tuổi, cho dù không còn “yểu điệu thực nữ” nữa, nhưng lúc nào chúng ta cũng vẫn yêu cái áo dài truyền thống của mình vô cùng phải không bạn? Có dịp là mặc liền sợ gì ai!

Không tin, nếu có Facebook account, bạn có thể tìm thấy các phụ nữ thế hệ dù 6, 7 bó trở lên vẫn  “trình diễn áo dài đủ kiểu, đủ màu trong ngày Tết.”

Nói cho cùng, như thế là chúng ta hạnh phúc lắm rồi vì được hưởng những cái Tết xa quê như tôi vừa kể với bạn.

Nhớ lại những năm đầu tiên đến Mỹ, lúc ấy tôi chỉ có ông anh ruột là người thân thì ông ấy bận rộn với việc đi “vác ngà voi” suốt ngày, rồi lại còn lo tổ chức Tết cho thiên hạ nên mấy mẹ con tôi chẳng biết Tết nhất ở Mỹ như thế nào.

Những đêm giao thừa trong thập niên 1980 ấy, khi còn ở Los Angeles, sau khi các con đã yên giấc, tôi dọn một bàn thờ nhỏ có dĩa mứt, dĩa hạt dưa, cái bánh chưng, trái dưa hấu rồi thắp hương khấn vái cho một năm mới sắp đến được an bình. Dọn dẹp xong thì vào giường nằm xuống, tủi thân khóc một mình vì nhớ mẹ và nhớ Việt Nam.

Còn bây giờ tôi được ở gần khu Little Saigon, hạnh phúc quá! Anh chị em, con cháu quây quần vào một trong những ngày Tết để cười nói, ăn uống, chuyện trò, chúc tụng. Ra khu Bolsa thì chợ hoa, chợ Tết rồi gặp gỡ bạn bè, người quen ở những buổi party…

Những ngày Tết xưa cũ mà tôi vẫn còn nhớ như in trong đầu cho dù nơi ấy chẳng còn là chốn quê nhà thân yêu nữa rồi. Tất cả những cái Tết êm đềm ấy đã ra đi theo thời gian và chỉ còn là kỷ niệm.

Tôi biết mình cũng chỉ là một trong hàng trăm ngàn người khác, từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, khó tránh khỏi đôi chút bâng khuâng khi nhớ về những cái Tết có những kỷ niệm đẹp, rất chung và rất riêng của mình.

Dù sao chúng ta vẫn thấy mình may mắn được đón những cái Tết mang hương vị rất Việt Nam, ở một mảnh đất không phải là nơi chôn nhau cắt rốn, bạn nhỉ.

Chúc bạn một cái Tết con Rắn an vui và hạnh phúc.

You may also like

Leave a Comment