LÝ THÀNH PHƯƠNG
Theo Kinh thánh Tân ước, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong sáu ngày và ngày thứ bảy là ngày nghỉ ngơi.
Ông Adam và bà Eva không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của “cây biết điều thiện điều ác” (trái cấm) nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi vườn Địa Đàng. Hai người này truyền tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Bởi loài người mang tội, Thiên Chúa đã giáng sinh làm người qua hình tượng là chúa Jesus và chịu khổ hình để loài người được hòa giải với Thiên Chúa.
Khi Jesus bị hành hình, ngay sau khi Ngài ngã đầu gục trên thập tự giá, thành Jerusalem liền trải qua một cuộc động đất. Điều này khiến mọi người tin tưởng rằng, Ngài đúng là con của Thiên Chúa được Thiên Chúa sai xuống để cứu loài người.
Cũng giống như Do Thái giáo, Kitô giáo cũng tin chỉ có một Thiên Chúa, nhưng họ cho rằng Thiên Chúa có ba ngôi là Chúa Cha (Thiên Chúa người tạo ra vũ trụ), Chúa Con (là chúa Jesus là hiện thân của Thiên Chúa xuống thế gian chuộc tội cho loài người) và Chúa Thánh Thần hay Đức Thánh Linh có thể hiểu như linh hồn của Thiên Chúa.
Đức Thánh Linh được Thiên Chúa tạo ra để sống trong những người tin nơi Chúa Jesus, để đời sống của họ sản sinh ra những đặc tính của Thiên Chúa. Những đặc tính đó là “yêu thương, vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, khiêm nhu.”
Năm Công nguyên
Trước thế kỷ thứ 6, cả thế giới không có năm. Các triều đại phong kiến đương thời thường dùng năm của vị vua cai trị để diễn tả năm cai trị của họ. Vào năm 525 Công Nguyên (CN), một vị tu sĩ Kitô giáo tên là Dionysius cảm thấy khó khăn khi tính lịch cho các ngày lễ Phục sinh đã sáng chế ra cách đếm năm này. Ông lấy năm sau ngày chúa Jesus Giáng sinh là năm thứ nhất (chúa Jesus sinh ngày 25/12 trước ngày 1/1 của năm đầu tiên bảy ngày).
Kitô giáo sau này được gọi là Công giáo, cho nên cách tính năm như vậy gọi là Công lịch. Những năm trước khi chúa Jesus ra đời được tính ngược lại cho một con số gọi là năm trước Công nguyên hay TCN. Những năm về sau gọi năm Công nguyên hay CN. Thuật ngữ “sau Công nguyên” là do người Việt dịch sai từ chữ gốc Latin.
***
Sau khi chúa Jesus qua đời, có 12 vị sứ đồ (tông đồ), là những vị môn đệ xuất sắc của chúa Jesus, thừa kế sứ mạng của Ngài. 12 vị sứ đồ sau đó đi khắp nơi truyền những lời giảng của Ngài và hình thành ra Kitô giáo với kinh thánh Tân ước ngày nay.
Trong thời sơ khai này, các Kitô hữu bị bắt bớ, đàn áp và hành hạ, thậm chí bị giết chết qua bàn tay quyền lực của Đế quốc La Mã. Khi Đế quốc La Mã bắt đầu suy yếu, loạn lạc xảy ra khắp nơi. Những hành động nhân đạo, cứu giúp kẻ khó khăn của các giáo sĩ, tu sĩ Công giáo nhanh chóng được nhân dân ủng hộ và đi theo.
Cuối cùng thì Kitô giáo cũng được hợp pháp hóa vào thế kỷ thứ 4 khi Đại đế Constantinus I của Đế quốc La Mã ban hành “Sắc lệnh Milano” năm 313, bãi bỏ các hình phạt bách hại dã man đối với các Kitô hữu.
Vào năm 380, Hoàng đế Theodosius I công nhận Kitô giáo là quốc giáo của Đế quốc La Mã. Thời kỳ này đánh dấu sự khởi đầu cho việc thiết lập nền tảng thần học và giáo luật của Giáo hội.
Năm 386, Cộng đồng Rôma thiết lập “Quy điển Thánh Kinh,” ban bố danh sách những quyển sách được Giáo hội chấp nhận từ Cựu ước (kinh thánh của Do Thái giáo) và Tân ước (kể lại cuộc đời và những bài giảng của chúa Jesus). Năm 431, Công đồng Êphêsô công khai tín điều, khẳng định Đức Giêsu mang hai bản thể: Con Thiên Chúa và con người, minh bạch hóa tín lý về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đầu thế kỷ thứ 6, các trường dòng phát triển thành các viện đại học như: Đại học Paris (Pháp), Đại học Bologna (Ý), Đại học Oxford (Anh), và nhiều Đại học ở Âu châu. Trước đây, các viện đại học này chỉ dạy thần học, sau này dạy cả y học, luật pháp, triết học để rồi trở thành nền tảng cho giáo dục hiện đại của phương tây. Thời kỳ này, các công trình kiến trúc của Giáo hội đạt đến những tầm cao mới, cực điểm là phong cách kiến trúc Roman và Gothic của các đại giáo đường ở châu Âu.
Từ năm 1095, những cuộc Thập Tự Chinh bùng phát. Đó là hàng loạt chiến dịch quân sự nhằm giành lại các vùng đất mà Hồi giáo đã chiếm đóng tại khu vực Đất Thánh (Jerusalem). Bên cạnh lý do đó, còn có một tham vọng bành trướng lãnh thổ của những nhà lãnh đạo theo Kitô giáo. Trong giai đoạn này, Kitô giáo đã bị các thế lực phong kiến và thậm chí là các Giáo hoàng đương thời lợi dụng và diễn dịch theo nghĩa phục vụ cho cuộc chiến của họ. Điều đó đã trở thành một trong các nguyên nhân biến Thập tự chinh trở thành một trong những vết nhơ khủng khiếp nhất của lịch sử Kitô giáo.
Trong suốt những cuộc viễn chinh, những đoàn quân Thập tự đã thẳng tay tàn sát, cướp bóc, thậm chí cá biệt có nơi còn ăn thịt người Hồi giáo, hoặc cổ động cả trẻ em vào cuộc chiến, dẫn đến việc hàng ngàn trẻ em bị bắt bán làm nô lệ. Cuối cùng, những cuộc Thập tự chinh cũng không bóp nghẹt được sự xâm lăng của Hồi giáo mà thậm chí lại góp phần làm sụp đổ các Đế quốc theo Kitô giáo.
Qua một thời kỳ từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 14. Kitô giáo dần dần bị phân hóa thành hai cực: Tây phương (Latin), thường được gọi là Giáo hội Công giáo hay Công giáo Roma; và Đông phương (Hi Lạp), sau này trở thành Chính Thống giáo hay Chính Thống giáo Đông phương . Hai giáo hội này bất đồng quan điểm về cách tổ chức, nghi thức và những học thuyết mà đặc biệt là vị thế của Giáo Hoàng. Mặc dù có những cố gắng hiệp thông, nhưng hai nhánh giáo hội chủ chốt vẫn phân ly cho đến ngày nay.
Năm 1492, Christopher Columbus khám phá ra châu Mỹ dẫn đến làn sóng truyền giáo tích cực của Công giáo Rôma tại khắp lục địa này. Sau sự kiện này, Công giáo lan rộng khắp thế giới và song hành cùng chủ nghĩa thực dân châu Âu vươn đến châu Mỹ, châu Á, châu Phi và châu Đại dương.
Thời kỳ Phục Hưng vào thế kỷ thứ 16, có một sự kiện đáng quan tâm đó là sự xét lại về học thuyết và đức tin của Công giáo. Năm 1517, Martin Luther, một người Đức đưa ra những bài luận văn mang nội dung bài trừ những học thuyết của Công giáo đương thời gọi là phong trào Kháng cách. Bản chất của Kháng cách – như tên gọi của nó – là kháng cự đòi hỏi khôi phục những học thuyết và cách thực hành Công giáo truyền thống đã bị tha hóa trong thời kỳ Thập Tự Chinh. Kháng cách sau này được gọi là Tin lành, chủ trương không công nhận Đức mẹ Maria là đồng trinh. Tin lành và Công giáo là hai nhánh chính của Kitô giáo.
Năm 1534, Nghị viên Anh thông qua quyền tối cao của Vua nước Anh đối với Giáo hội tại Anh, được hiểu là lời tuyên bố ly khai khỏi Giáo hội Roma. Từ năm 1536, nhiều nhà dòng Công giáo tại xứ Anh, xứ Wales và Ireland bị giải thể. Anh giáo chính thức phân ly khỏi Giáo hội Công giáo Roma.
Một số chủ trương về con người của Công giáo
Giáo hội Công giáo cho rằng không một ai có quyền xâm phạm đến sự sống của bản thân mình hay của người khác vì mỗi một người được Thiên Chúa tạo dựng giống với hình ảnh của Ngài, có phẩm giá vượt trên các loài thụ tạo khác. Bởi vậy, Giáo hội Công giáo phản đối những hành vi mà họ cho rằng làm huỷ hoại giá trị sự sống như “giết người, tự tử, phá thai, tránh thai, gây chết êm dịu (trợ tử), diệt chủng, chiến tranh, và sinh sản vô tính.”
Giáo hội Công giáo không chỉ trích tình dục nếu nó diễn ra trong một mối quan hệ vợ chồng hợp với tinh thần giáo luật Công giáo. Sinh sản con cái được Giáo hội Công giáo đề cao vì tin rằng việc sinh sản là cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong các Giáo huấn của mình, Giáo hội này vẫn nhấn mạnh việc sinh sản và trách nhiệm nuôi dạy với con cái.
Giáo hội Công giáo nhìn nhận rằng: “Chúng ta đã thừa kế từ các thế hệ trước và chúng ta đã hưởng lợi từ lao động của những người đương thời. Chính vì thế, chúng ta phải có bổn phận đối với hết mọi người và không thể từ chối quan tâm tới những người sẽ sống sau chúng ta. Chúng ta là một gia đình nhân loại. Đây là một trách nhiệm mà các thế hệ hiện nay phải có đối với các thế hệ tương lai. Do đó, chăm sóc, bảo vệ thiên nhiên, môi trường là trách nhiệm của tất cả mọi người trên Trái Đất vì đó là tài sản chung của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Không ai được khai thác sử dụng một cách vô trách nhiệm các loại hữu thể khác nhau, bất kể là sinh vật hay loài vô tri vô giác như thú vật, thảo mộc, các yếu tố thiên nhiên, hoàn toàn theo ý mình, theo nhu cầu kinh tế riêng của mình.”
Giáo hội Công giáo ngày nay – Tòa thánh Vatican
Tên gọi ngày nay là Giáo hội Công giáo hay là Giáo hội Công giáo Roma có nghĩa là “Giáo hội phổ quát.“
Giáo hội Công giáo được xem như một quốc gia có chủ quyền đầy đủ trên một lãnh thổ khiêm nhượng là Vatican nằm trong thành phố Roma, thủ đô nước Ý. Đứng đầu Giáo hội là Đức Giáo Hoàng, cũng là nguyên thủ quốc gia của Thành Vatican. Trực tiếp cộng tác với Giáo Hoàng là Giáo triều Roma, tức cơ quan quản lý và điều hành hoạt động của Giáo hội Công giáo.
Hiện nay Công giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới. Không kể nhánh Tin lành, tổng số tín đồ của Công giáo hiện có khoảng 1,3 tỷ người.
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/i-to-p/ly-thanh-phuong/
