HOUSTON – Bệnh thận mạn tính (CKD) hiện đã vươn lên vị trí thứ chín trong số các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu vào năm 2023. Đây là một bước nhảy đáng báo động từ vị trí thứ 12 trước đây.
Theo các cộng tác viên của Nghiên cứu Gánh nặng Bệnh tật Toàn cầu (GBD) 2023, ước tính có 788 triệu người từ 20 tuổi trở lên mắc CKD trên 204 quốc gia và vùng lãnh thổ vào năm 2023. Con số này đã tăng hơn gấp đôi so với 378 triệu người vào năm 1990. Tỷ lệ lưu hành CKD toàn cầu đã điều chỉnh theo tuổi tăng từ 3,5% lên 14,2% trong cùng kỳ.
Sự gia tăng này đã đẩy CKD vào top mười nguyên nhân gây tử vong, chiếm 1,48 triệu ca tử vong.
Các yếu tố rủi ro
Bác sĩ Patrick B. Mark, thuộc Đại học Glasgow ở Scotland, cho biết trong một phiên họp tại Tuần lễ Thận học của Hội Thận học Hoa Kỳ: “Chúng ta ở vị trí thứ 12 [về nguyên nhân gây tử vong toàn cầu] và bây giờ chúng ta đã lên đến vị trí thứ chín. [Điều này] khẳng định CKD là một vấn đề y tế nghiêm trọng”.
Ngoài ra, căn bệnh này còn xếp thứ 12 trong số các nguyên nhân hàng đầu gây ra số năm sống điều chỉnh theo khuyết tật (DALYs). Các yếu tố rủi ro hàng đầu dẫn đến DALYs liên quan đến CKD được xác định là:
- Đường huyết lúc đói cao
- Chỉ số BMI (chỉ số khối cơ thể) cao
- Huyết áp tâm thu cao
Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra mối liên quan nghiêm trọng với bệnh tim mạch (CV). CKD giai đoạn 1 đến 5 được xác định là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch. Suy giảm chức năng thận là nguyên nhân của khoảng 11,5% số ca tử vong do tim mạch trên toàn thế giới và xếp thứ bảy là yếu tố nguy cơ gây tử vong do bệnh tim mạch.
Phân bố toàn cầu và sự chênh lệch
Gánh nặng của CKD không được phân bổ đồng đều. Về số lượng tuyệt đối:
- Trung Quốc đứng đầu với 152 triệu người mắc bệnh.
- Ấn Độ đứng thứ hai với 138 triệu người.
- Hoa Kỳ ghi nhận 38.300.000 triệu người.
Các khu vực có tỷ lệ lưu hành CKD chuẩn hóa theo tuổi cao nhất bao gồm bắc Phi, Trung Đông, nam Á, châu Phi cận Sahara, Mỹ Latinh và Caribe. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng gánh nặng cao ở tây Phi “có khả năng bị ảnh hưởng một phần bởi cả các yếu tố nguy cơ mạch máu và các biến thể di truyền APOL1”. Họ cũng đề xuất biến đổi khí hậu và căng thẳng do nhiệt độ quá cao có thể là những yếu tố góp phần.
Hầu hết bệnh nhân mắc CKD ở giai đoạn một đến ba với tỷ lệ lưu hành chung là 13,9%. Các giai đoạn nặng hơn thường thấy ở người lớn tuổi.
Việc tiếp cận điều trị cũng cho thấy sự chênh lệch rõ rệt. Các khu vực có lợi tức cao có xu hướng có tỷ lệ bệnh nhân được lọc máu và ghép thận cao nhất. Trên toàn thế giới, tỷ lệ người được lọc máu cao hơn so với ghép thận. Đáng chú ý, châu Phi cận Sahara có tỷ lệ tiếp cận lọc máu và ghép thận “cực kỳ thấp”.
Kêu gọi hành động
Một nghịch lý đáng lo ngại là sự gia tăng này “đang xảy ra bất chấp số lượng ngày càng tăng các liệu pháp dựa trên bằng chứng để làm chậm sự tiến triển của CKD” và trì hoãn nhu cầu điều trị thay thế thận tốn kém.
Trong một bài bình luận đi kèm, Bác sĩ Valerie A. Luyckx (Đại học Zurich) và Bác sĩ Ifeoma I. Ulasi (Bệnh viện Giảng dạy Đại học Nigeria) đã đồng tình, thúc giục cộng đồng thận học toàn cầu “làm nhiều hơn nữa để nâng cao nhận thức về nhu cầu xét nghiệm những cá nhân có nguy cơ mắc bệnh thận, hỗ trợ lồng ghép CKD vào các lộ trình chăm sóc ban đầu, và hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng ở mọi cấp độ thi hành liệu pháp theo hướng dẫn”.
Hai bác sĩ Luyckx và Ulasi cũng chỉ ra những hạn chế trong dữ liệu, lưu ý rằng dữ liệu albumin niệu phần lớn bị thiếu ở một số khu vực. Họ nhấn mạnh: “Dữ liệu chính xác là căn bản để thông báo chính sách”. Họ kêu gọi các cuộc khảo sát hộ gia đình để giúp tiết lộ gánh nặng sức khỏe thực tế cho đến khi có bằng chứng đáng tin cậy hơn.
Nguồn: MedPage Today

