CHU TẤT TIẾN
Có một sự lầm lẫn rất thường thấy khi nhận định về tri thức (the know) và trí thức (the intellect). Đa số cho rằng tri thức và trí thức là một. Nhận định này không hoàn toàn đúng cũng như không hoàn toàn sai.
Tri thức
Tri thức (cũng còn gọi là nhận thức) là sự nhận biết, sự hiểu, thường là tự nhiên, hoặc do thói quen, hoặc được khuyên răn, dạy bảo. Một đứa trẻ thông minh có tri thức, biết điều gì tốt thì làm theo, điều gì xấu thì chê bỏ. Trẻ thơ mới sinh đã có nhận xét và biết ôm bầu sữa mẹ, biết giơ tay về phía người bồng ẵm bé, khi chưa biết nói thì khóc, hờn để báo cho cha mẹ biết mình đang gặp khó khăn. Tri thức của bé mới lớn biết theo lời người lớn, biết lặp lại những hành động mà bố mẹ dạy. Đôi khi trẻ cũng có những nhận thức lạ lùng khiến cha mẹ cũng bí, không biết trả lời sao. Thí dụ như khi trẻ gái hỏi mẹ: “Mẹ ơi, sao em Tuấn có chim mà con không có chim?” (Trong một chuyện vui cười của người Mỹ, khi đứa bé gái hỏi mẹ như thế, thì người mẹ trả lời: “Lớn lên, con cũng sẽ có chim. Nếu con ngoan thì chỉ có một chim, nếu con không ngoan, thì có nhiều chim lắm!”)
Đến tuổi đi học, tri thức của học trò biết lắng nghe lời thầy, cô giảng bài, biết phân biệt phải trái để áp dụng vào đời. Nhiều trường hợp đặc biệt, học trò có thể có những sự hiểu biết riêng làm cho thầy, cô cũng lúng túng. Như khi học về cơ thể học, một học trò giơ tay, hỏi: “Thưa thầy. Tại sao “gan” lại liên quan đến sự liều mạng? Con thường nghe nói “người này gan lắm”, “Thằng này to gan thiệt,” hay khi muốn mạ lị ai thì nói: đồ nhát gan?” Câu hỏi này chắc chắn làm nhiều thầy, cô bị bí, không trả lời được.
Đến tuổi yêu đương là tuổi bước vào đời, tri thức của một thanh niên, một thiếu nữ đã phát triển mênh mông, tùy theo sự tìm hiểu của mỗi người. Do đó, mà có nhiều người con làm cho cha mẹ không trả lời nổi những câu hỏi của mình. Thường thấy nhất là vấn đề hôn nhân của con cái, nhận thức của cha mẹ về con dâu, con rể tương lai có thể hoàn toàn khác biệt với nhận thức của người con, khiến gây ra nhiều trường hợp bi thảm, người con bỏ gia đình, tự mình tổ chức hôn lễ cho mình. Một yếu tố nữa cần nhấn mạnh là tri thức không phân biệt nam, nữ, người “cổ xanh” (blue collar- lao động tay chân) hay “cổ trắng” (white collar -làm việc văn phòng). Thực tế, có nhiều người “cổ xanh” hiểu biết về chính trị, xã hội hơn nhiều người “cổ trắng” vì họ chịu đọc báo, nghe đài phát thanh, xem truyền hình. Cá nhân người viết, khi còn ở Saigon, mỗi khi đi hớt tóc, thường ngạc nhiên trước những lời bình luận chính trị của những người thợ hớt tóc. Các ông thợ hớt tóc, trong khi hai tay thì cắt xén tóc như máy, miệng vẫn thao thao phê bình các vấn đề chính trị mới xảy ra. Tri thức của những người lao động này có khi chính xác hơn nhận thức của các nhân vật chính trị, vì những người làm chính trị chỉ chú trọng vào mục tiêu và công việc mình làm, nên đôi khi bị mù quáng trước thực tế. Điểm chót về tri thức là nhận thức sẽ thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh cũng như công việc hiện tại và những ước mơ mới chuyển động.
Trí thức
Trí thức là sự hiểu biết cao hơn tri thức qua sự học tập và rèn luyện, thường là từ một thời gian dài nhiều năm, để rồi sở hữu được một khối lượng thông tin đặc biệt mà người thường không thể có được. Có vị trí thức biết tổng quát nhiều phương diện, đề mục nào cũng biết, vấn đề nào cũng hay, đồng thời cũng có những vị trí thức chỉ hiểu biết sâu sắc về đề tài mình nghiên cứu, mà không rành rẽ về mọi vấn đề chính trị, xã hội.
Người làm những công việc chuyên môn như bác sĩ y khoa, kỹ sư điện tử, kiến trúc sư, luật sư, khoa học gia thì sở hữu một khối lượng thông tin khổng lồ về các đề mục chuyên khoa mà họ theo đuổi, nhưng không chắc rành rẽ về những tương quan xã hội, chính trị, văn hóa, hay nghệ thuật. Với những triết gia, giáo sư, văn sĩ, tiến sĩ văn chương, chính trị gia…thì lại biết rất nhiều về các vấn đề thuộc phạm vi nhân bản, nhân loại, con người và cuộc sống, nhưng có thể chỉ biết rất ít về những phạm trù khoa học. Do đó, rất nhiều triết gia nói thao thao về mọi chuyện trên trời, dưới biển nhưng khi đụng vào lĩnh vực thống kê hay tài chánh thì lúng túng.
Lịch sử Việt Nam cận đại cho thấy rất nhiều vị trí thức như luật sư, bác sĩ, kỹ sư đã không hiểu tường tận về môn chính trị – xã hội (sociopolitical) nên dấn thân vào chính trị để bị những lường gạt, rồi nhận kết quả đau thương cho chính cá nhân mình và gia đình mình. Một thí dụ cụ thể là nhiều nhân tài danh tiếng quốc tế như Thạc sĩ Trần Đức Thảo, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, đã bỏ danh vọng và quyền lợi để về nước hoạt động cho Việt Minh để rồi tàn đời trong ngõ hẹp. Thí dụ khác: nhóm của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ gồm toàn Trí thức có bằng cấp chuyên môn cao, đã ngây thơ tin tưởng vào tư tưởng cách mạng của mình, để sau 1975, tất cả nhóm, dù công lao hãn mã bao nhiêu năm, dù hy sinh cả hạnh phúc gia đình và cá nhân, đã bị sa thải khỏi guồng máy chính trị một cách đau đớn. Lý do đơn giản là cái khối tri thức, nhận thức, của họ, tuy khá rộng, nhưng lại bị hạn chế bởi cái “bản ngã,” cái “tôi đúng, tôi hoàn thiện” của họ nên không thấy được bộ mặt thật của chính trị. Vì thế, không những họ tàn phá cuộc đời của họ mà còn làm phương hại đến những người khác, để rồi hối hận không kịp.
Một yếu tố quan trọng trong vấn đề tri thức là có ba cấp độ hiểu biết (the know): Ý thức (sense), tiềm thức (subconsciousness), và vô thức (mindless). Như đã trình bày trên, Ý thức là sự nhận thức được các sự việc diễn ra chung quanh, là sự hiểu biết được bày biện ra ngoài trong thời hiện tại qua lời nói, bài viết, thái độ cư xử, sự trao đổi kiến thức với những người khác. Tiềm thức là những sự hiểu biết trong quá khứ, đã chìm sâu trong ký ức, nhưng nếu có một động cơ thúc đẩy nào đó, tiềm thức bật ra như mở một nắp hộp có gắn lò xo. Nhiều người thất tình, bị tình phụ, thì trong tiềm thức vẫn vấn vương một hình ảnh, một mùi hương cũ, nên khi bất ngờ nhìn thấy một hình ảnh tương tự, nghe một giọng nói giống như giọng nói của người yêu cũ, hay ngửi thấy một mùi hương nào quen thuộc, đột nhiên kỷ niệm ào đến như thác đổ, tiềm thức trở thành nhận thức, khiến người bàng hoàng, có khi bất động, có khi khóc nghẹn, có khi làm những cử chỉ lạ lùng. Những bệnh nhân Alzheimer là những người mất hoàn toàn tri thức, không còn chủ động được các hành động, lời nói của mình, nhưng tiềm thức vẫn lung linh. Như cố Tổng thống Ronald Reagan, bị mắc bệnh Alzheimer, không còn nhận ra con cháu, nhưng chỉ có một người mà ông vẫn nhận ra: đó là vợ mình. Trong tiềm thức sâu thẳm của ông, tiếng nói, dáng hình của người vợ vẫn hiện diện, tuy ông không nói được, nhưng sự tin cậy của ông đã khiến ông đặt mình lệ thuộc vào tay người vợ yêu quý. Ông cũng làm những cử chỉ vô thức như mở miệng ăn cơm hay uống nước theo sự giúp đỡ của người vợ. Một hiện tượng thương tâm hơn bệnh Alzheimer là những người bị stroke, sống đời thực vật. Theo Psychology, những người này đau đớn hơn cả bị Alzheimer, vì trong ý thức của họ vẫn còn mờ mờ, họ nhận biết được tình trạng của họ, mà bất lực không làm gì được. Có lúc họ chìm trong vô thức, lại có lúc tiềm thức trỗi dậy làm họ khổ sở vô cùng. Đôi khi họ làm những cử chỉ như muốn chết đi cho nhanh, nhưng lại không thể, cho nên nét mặt họ đau khổ lắm. Vì thế, nhiều người đã viết chúc thư, nếu gặp trường hợp sống đời thực vật thì nên rút ống thở cho họ đi mau.
Còn vô thức là những hành động không có chủ ý, chỉ vì quen lệ. Như xoa tóc, vuốt cằm, nói lẩm bẩm hoặc hát nho nhỏ một mình. Có người đứng trước gương nhìn vào mặt mình mà không nhớ là ai, vì đó là hành động vô thức, quen lệ, mỗi sáng phải soi mặt, cạo râu, chải đầu nhiều chục năm. Trong đời sống hàng ngày của mọi người, cử chỉ lấy chìa khóa xe, cắm vào ổ mở máy, gạt cần lái, đi làm… đôi khi chính là những hành động vô thức, không suy nghĩ, không chủ động. Có những người chồng, trước khi đi làm thường hôn vợ mà không biết rằng đó là cử chỉ vô thức. Người lúc đó là một cái máy robot, không hơn không kém. Nhiều tín đồ các tôn giáo, vì đã bị buộc đọc kinh từ nhỏ, nên lớn lên, cứ mở miệng ra mà đọc kinh, mà đôi khi không hiểu biết mình đang đọc gì, ý nghĩa của câu kinh ra sao. Một số người làm chính trị, diễn giả, hay nói nhiều và nói nhanh, đã bật ra những câu “vô thức,” làm hại đến tương lai của chính họ.
Bằng cấp
Khi đụng đến vấn đề trí thức mà không nói về bằng cấp (degree) và khoa bảng (laureate) thì có phần thiếu sót. Nhiều người lầm tưởng là hễ có bằng cấp là đương nhiên thành trí thức. Kết luận này thật sự mơ hồ. Thực tế, bằng cấp không làm nên người trí thức. Rất nhiều thí sinh học gạo để đậu mà chẳng hiểu tường tận bài học. Lại có những người đậu vớt, đậu dưới cùng, nên kiến thức kém cỏi, chưa kể có nhiều vụ chạy chọt để có bằng cấp. Có khá nhiều giám khảo vì mệt mỏi, nên dù thấy bài làm thiếu sót cũng cho qua, thí sinh đậu vì “hên”.
Tuy nhiên, phải nói một điều là đa số những người có bằng cấp cao thường tự mãn, cho mình thông minh hơn người, mặc dầu có “bằng dỏm, bằng giả, bằng mua,” vì thế mà nhiều trường hợp ở quê mình, nhiều người có bằng giáo sư đại học, tiến sĩ phát biểu những câu khá đần độn làm cho người nghe cười muốn sặc. Thí dụ như có một tiến sĩ phát biểu rằng “để chống lụt, mỗi nhà nên để một cái lu phòng hờ.” Theo thống kê, Việt Nam hiện có gần 40,000 tiến sĩ, số lượng tiến sĩ nhiều gấp bội các quốc gia Đông Nam Á khác, mà không người nào có đề án, phát minh, sáng kiến gì đem lại lợi ích cho đất nước. Nhiều bằng tiến sĩ quái đản như: tiến sĩ lương tiền, tiến sĩ bơi lội, tiến sĩ với luận án “Nịnh trong nhân gian,” luận án về “thuật chơi diều,” “hành vi chửi thề trong tiếng Việt,” “thuật chơi cầu lông”… Những cái bằng tiến sĩ quái đản này, không những không giúp gì được cho đất nước, mà trái lại, còn làm nhục cho giá trị văn học, văn hóa của dân tộc.
Khoa bảng
Khoa bảng (laureat) lại hơi khác với trí thức. Người khoa bảng là những người dùng bằng cấp của mình để có địa vị cao trong chính trường, trong văn học, được mũ cao, áo dài, được sự cung kính của thiên hạ. Điều dễ thấy chung nhất của các bậc trí thức khoa bảng là dễ bị “cái tôi – me – myself – moi” ngăn cản không cho cái tri thức mở rộng thêm, cho nên, tri thức của các vị khoa bảng thường nằm một chỗ, không tiến và không lùi. Lại có rất nhiều người khoa bảng, vì quá tự mãn với thành công của mình, để rồi nhốt tri thức của mình tại một ngăn não nào đó, như giữa một đồ vật trong hộp, cất đi. Một khi mà tri thức đã bị nhốt trong hộp thì cũng như cây thiếu nước, sẽ tàn tạ, héo úa và chết. Vì thế mà rất nhiều những vị khoa bảng, khi đến tuổi già, đều trở thành lẩm cẩm, nói trước, quên sau, hoặc chỉ nhớ đến sự ngưỡng mộ của người đời đối với một quá khứ huy hoàng, danh vọng. Hễ mở miệng nói là “Hồi đó, tôi là người đã sáng chế (sáng tác, thành lập…) công trình A, B, C…”
Nhìn lại lịch sử nhân loại, những người trí thức Tây phương, từ thời Trung Cổ, đã là những vị trí thức thật sự (genuine – authentic), là viên đá tảng lót đường cho khoa học hiện tại như: Johannes Kepler (1571–1630), nhà thiên văn vĩ đại nhất thế kỷ 16-17; Nicolaus Copernicus (1473–1543), nhà thiên văn học và là người đề xuất thuyết nhiệt tâm (heliocentrism), thuyết cho rằng mặt trời là trung tâm vũ trụ; Isaac Newton (1643–1727), nhà toán học, triết học, và vật lý không gian vĩ đại nhất nhân loại, ông đã dùng toán học (không có kính thiên văn) mà tìm ra khoảng cách mặt trời, mặt trăng và trái đất; Carl Linnaeus (1707–1778), người hệ thống hóa môn thực vật học; Alessandro Volta (1745–1827), người khám phá ra các ý niệm cơ bản về điện, vì thế bây giờ nhân loại dùng chữ “Volt” để đo sự cách biệt giữa hai cực; Andre-Marie Ampere (1775–1836), người khám phá ra định luật về “Ampere” (cường độ của dòng điện); Thomas A. Edison (1847–1931), nhà sáng chế sở hữu 1200 bằng sáng chế; Guglielmo Marconi (1874–1937), nhà sáng chế vô tuyến điện thoại, giải Nobel 1909; Albert Einstein (1879–1955), người đặt nền tảng cho thuyết tương đối, giải Nobel 1921; Max Planck (1858–1947), người sáng tạo nên vật lý lượng tử (quantum physics), giải Nobel 1918; Wernher von Braun (1912–1977); Louis Pasteur, nhà khoa học, y sĩ, vật lý học, người đặt ra luật khử trùng; và Blaise Pascal, nhà toán học vĩ đại, triết gia, và nhà văn công giáo.
Một điều đáng lưu ý là từ thế kỷ thứ ba cho đến thế kỷ 20, Âu Châu và Mỹ Châu vẫn là miền đất tốt cho Thiên Chúa Giáo phổ biến, do đó có khoảng 95% những nhà khoa học đặt nền móng cho khoa học hiện đại đều là giáo hữu Công Giáo, trừ Albert Einstein, theo Do Thái giáo, rồi sau đó bỏ, không theo tôn giáo nào.
Một câu phát biểu của nhà toán học vĩ đại Blaise Pascal đã làm chỉ nam cho việc nghiên cứu khoa học sau này: “Khoa học tinh vi làm cho người ta gần Thiên Chúa, khoa học nông cạn làm cho người ta xa Thiên Chúa.” Newton, nhà sáng lập vật lý lý thuyết cổ điển nói: “Điều ta biết được chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la. Những xếp đặt và hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một đấng toàn năng và toàn trí.”
Thực tế, tri thức của con người thường có hạn, nhưng với những trường hợp đặc biệt của các nhà khoa học vĩ đại kể trên, thì có thể nói khối lượng tri thức của họ mênh mông như biển cả, không có dụng cụ nào đo lường được. Chu Tất Tiến
Tháng 10, 2025
