Kỷ nguyên hòa bình nhờ dân số già

by Vy Trần

Nguồn: Mark L. Haas, “The Coming Pax Geriatrica”, Foreign Affairs, 24/07/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Phần lớn các quốc gia trên thế giới đang trải qua một cuộc cách mạng nhân khẩu học: dân số già hóa một cách đáng kể, liên tục và có thể không thể đảo ngược. Sự kết hợp giữa tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ cao đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên, cùng với đó là sự gia tăng đều đặn về độ tuổi trung bình của dân số. Vào năm 1950, có khoảng 5% dân số thế giới từ 65 tuổi trở lên. Đến năm 2021, con số đó đã gần như tăng gấp đôi. Ngay cả khi tỷ lệ sinh ngừng giảm và duy trì ở mức năm 2022 – một điều khó có thể xảy ra – Liên Hợp Quốc dự báo rằng đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ tăng gấp ba lần. Nhiều quốc gia trong số này không chỉ già hóa; quy mô dân số của họ còn đang dần thu hẹp lại. Hơn 40 quốc gia có dân số giảm do tỷ lệ sinh thấp. Đến năm 2050, gần 90 quốc gia sẽ có ít công dân hơn vào mỗi cuối năm so với đầu năm.

Như nhiều nhà phân tích đã chỉ ra, dân số già hóa làm chậm tăng trưởng kinh tế và đòi hỏi chính phủ phải chi tiêu công nhiều hơn cho phúc lợi người cao tuổi. Nhưng nó cũng có một lợi ích quốc tế quan trọng chưa được thừa nhận: già hóa làm giảm đáng kể khả năng xảy ra chiến tranh giữa các quốc gia. Thế kỷ 21, được dự đoán rộng rãi là một “thời đại suy giảm dân số,” cũng có thể trở thành một thế kỷ hòa bình hơn.

Quan điểm cho rằng xung đột quốc tế sẽ giảm trong những thập niên tới có vẻ vô lý, đặc biệt khi nhìn vào số lượng lớn các cuộc chiến tranh ở châu Phi, châu Âu và Trung Đông trong 25 năm đầu thế kỷ này. Nhưng khi các quốc gia già đi, chính phủ sẽ buộc phải quan tâm đến dân số già hóa của họ và đối phó với nguồn lực ngày càng khan hiếm. Trong khi đó, khi các nhà lãnh đạo và công dân già đi, các nghiên cứu chỉ ra rằng họ sẽ có xu hướng ủng hộ hòa bình hơn. Những yếu tố này sẽ kết hợp lại để tạo ra những xã hội ít khả năng và ít dung thứ cho việc gây chiến.

Mặc dù chắc chắn có những ngoại lệ, xu hướng gây chiến, nói cách khác, mạnh hơn ở các quốc gia có dân số trẻ hơn. Làn sóng dân số già và thu hẹp sắp tới sẽ định hình lại địa chính trị một cách cơ bản. Ít nhất theo một cách, sự biến đổi đó sẽ tốt đẹp hơn.

Thế giới có đang trong tình trạng chiến tranh không?

Năm 2023, Emma Beals và Peter Salisbury đã viết trên Foreign Affairs về “sự bùng nổ xung đột bạo lực toàn cầu” kể từ năm 2012. Thật vậy, theo dữ liệu do Chương trình Dữ liệu Xung đột Uppsala và Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo thu thập, số lượng các cuộc xung đột quân sự do nhà nước lãnh đạo đã gần như tăng gấp đôi trong thập niên từ 2012 đến 2022.

Nhưng những số liệu thống kê này không cho thấy rõ rằng bạo lực giữa các quốc gia chủ yếu chỉ giới hạn ở những nước có dân số trẻ. Trong mỗi năm từ 2012 đến 2023, tỷ lệ trung bình người từ 65 tuổi trở lên của tất cả các quốc gia chính khởi xướng xung đột bạo lực là 5%, xấp xỉ một nửa so với mức trung bình của tất cả các quốc gia trên thế giới vào năm 2024.

Các quốc gia có dân số già hơn do đó đã chứng tỏ xu hướng giảm tham gia vào các cuộc xung đột bạo lực. Các phân tích thống kê cho thấy các quốc gia này ít có khả năng khởi xướng các cuộc xung đột quân sự hơn đáng kể so với các quốc gia trẻ hơn. Điều mà chúng ta tưởng chừng là một xu hướng chiến tranh phổ biến trên toàn cầu, thực chất chủ yếu được thúc đẩy bởi sự hiếu chiến của các quốc gia có dân số trẻ. Điều này có thể giúp giải thích tỷ lệ chiến tranh và xung đột cao trên khắp lục địa châu Phi, nơi một số nước có dân số trẻ nhất thế giới.

Kinh tế yếu sẽ không có chiến tranh

Một lý do chính khiến dân số già hóa làm giảm nguồn lực có thể dùng cho chiến tranh là vì nó làm chậm đáng kể tăng trưởng kinh tế. Bằng cách giảm số lượng lao động trong xã hội, làm chậm năng suất và giảm tiêu dùng trong nước, tình trạng già hóa làm cho các quốc gia kém năng động về kinh tế hơn, và do đó, ít khả năng tài trợ cho các cuộc chiến tranh hơn.

Giảm dân số trong độ tuổi lao động (được định nghĩa là những người từ 15 đến 64 tuổi) sẽ thay đổi hoàn toàn cơ cấu xã hội trên khắp thế giới. Dân số trong độ tuổi lao động của châu Âu sẽ giảm khoảng 17% vào năm 2050 so với mức năm 2020; của Đông Á sẽ giảm 24%. Từ năm 2020 đến 2050, dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản dự kiến sẽ giảm 28%, của Trung Quốc 23%, của Nga 19% và của Đức 17%.

Dân số già hóa cản trở tăng trưởng năng suất bằng cách tăng độ tuổi trung bình của lực lượng lao động. Lực lượng lao động già đi là một lực lượng lao động kém năng suất hơn. Mọi người thường đạt năng suất cao nhất ở độ tuổi 40, ở tuổi này họ có nhiều kiến thức, kinh nghiệm và nguồn lực hơn so với lao động trẻ tuổi, đồng thời vẫn giữ được nhiều năng lượng và sức khỏe tốt hơn so với những người lớn tuổi hơn. Những người trong độ tuổi này cũng sẵn sàng hơn so với những người lớn tuổi để học hỏi kỹ năng và kiến thức mới, tham gia vào các dự án rủi ro cao nhưng lợi nhuận lớn, và chuyển đến nơi khác để tìm kiếm cơ hội việc làm. Như nhiều nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra, quy mô của nhóm tuổi này so với lao động lớn tuổi và trẻ tuổi hơn là yếu tố then chốt quyết định tăng trưởng năng suất tổng thể của một quốc gia. Khi tỷ lệ người ở độ tuổi 40-49 tăng lên, năng suất tổng thể sẽ được thúc đẩy. Ngược lại, khi tỷ lệ này giảm, năng suất tổng thể sẽ bị ảnh hưởng.

Đây là tin xấu cho triển vọng kinh tế của các quốc gia già hóa. Trong số những người lao động, tỷ lệ người từ 40 đến 49 tuổi so với những người từ 30 đến 39 tuổi và những người từ 50 tuổi trở lên sẽ giảm mạnh ở nhiều quốc gia trong suốt thế kỷ 21. Tại Nga, tỷ lệ nhóm tuổi quan trọng này đối với tăng trưởng năng suất sẽ giảm 10% từ năm 2020 đến 2050, ở Nhật Bản là 15%; và ở Trung Quốc là 18%.

Một tiến bộ công nghệ lớn, chẳng hạn như việc áp dụng rộng rãi trí tuệ nhân tạo, có thể giúp đảo ngược những xu hướng này. Nhưng ngay cả cuộc cách mạng AI cũng không đảm bảo sẽ ngăn chặn suy thoái kinh tế. Thập niên mất mát của Nhật Bản là một ví dụ rõ ràng cho điều này. Bùng nổ công nghệ thông tin vào giữa những năm 1990 đã mang lại cho một số quốc gia một sự gia tăng năng suất lớn, có quy mô tương tự như những gì một số nhà kinh tế dự đoán cho cuộc cách mạng AI. Tuy nhiên, Nhật Bản không nằm trong số những nước hưởng lợi. Năng suất tổng hợp của nước này, một thước đo giá trị kinh tế của đổi mới và tiến bộ công nghệ, chỉ tăng 1% từ năm 1995 đến 2005, bằng một phần tư so với thập niên trước. Sự gia tăng khủng hoảng già hóa của Nhật Bản trong giai đoạn đó là trung tâm của sự suy giảm tăng trưởng năng suất này. So với số người từ 30 đến 39 tuổi và 50 đến 64 tuổi, nhóm người Nhật Bản từ 40 đến 49 tuổi có năng suất cao đạt đỉnh vào năm 1991, sau đó giảm mạnh 29% từ năm 1995 đến 2005. Do đó, cách mạng công nghệ thông tin có thể đã giúp năng suất của Nhật Bản duy trì ổn định trước sự già hóa dân số nhanh chóng, nhưng vì lực lượng lao động của nước này thiếu cơ cấu tuổi tối ưu, bùng nổ công nghệ thông tin đã không dẫn đến sự gia tăng đáng kể về động lực kinh tế tổng thể. Có lý do để mong đợi rằng các quốc gia có dân số già hóa tương tự sẽ đối mặt với các vấn đề tương đương trong cuộc cách mạng AI.

Già hóa dân số cũng sẽ cản trở sự mở rộng kinh tế từ phía nhu cầu. Tiêu dùng nội địa mạnh mẽ chiếm khoảng hai phần ba hoạt động kinh tế ở hầu hết các quốc gia có thu nhập cao. Vấn đề đối với các quốc gia già hóa là quy mô dân số có xu hướng chi tiêu nhiều nhất (những người ở độ tuổi 40 hoặc gần đó) đang giảm, trong khi tỷ lệ dân số có xu hướng chi tiêu ít hơn đáng kể (những người từ 65 tuổi trở lên) đang tăng lên.

Ví dụ, tiêu dùng yếu kém do ảnh hưởng của dân số già hóa đã góp phần vào sự suy thoái của thị trường nhà ở Trung Quốc. Nhóm tuổi có khả năng mua nhà nhất (những người khoảng 30 tuổi) đã giảm 30% kể từ năm 2020. Kết quả là, nhu cầu đã sụt giảm nghiêm trọng, gây áp lực lớn lên tài sản hộ gia đình, khả năng tự tài trợ của chính phủ thông qua thuế, và toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc.

Sự chậm lại trong tăng trưởng kinh tế có thể sẽ dẫn đến các tranh chấp về các nguồn lực ngày càng khan hiếm ở các quốc gia già hóa. Nhưng chúng cũng sẽ làm giảm khả năng của các quốc gia đó tham gia chiến tranh với một quốc gia khác. Theo các nhà kinh tế Mark Harrison và Nikolaus Wolf, số lượng các tranh chấp quân sự mà các quốc gia đã khởi xướng trong lịch sử đã tăng lên cùng với sự mở rộng GDP và GDP bình quân đầu người. Khi sức mạnh kinh tế của một quốc gia tăng lên, chi phí tương đối để đạt được các mục tiêu quốc tế của nó giảm đi. Do đó, khi sức mạnh kinh tế của một quốc gia tăng lên, nó có thể sẵn sàng hơn để tìm kiếm sự thay đổi tốn kém, ngay cả bằng cách gây chiến. Nếu tăng trưởng kinh tế thường khiến các quốc gia dễ hành động gây hấn hơn, thì ngược lại, tăng trưởng chậm lại do dân số già hóa sẽ làm giảm khả năng xảy ra những hành vi gây hấn đó.

Chi tiêu cho quân sự hay cho phúc lợi người già?

Khi số lượng người cao tuổi tăng vọt, các nghĩa vụ của chính phủ đối với phúc lợi của người cao tuổi, chủ yếu là lương hưu và chăm sóc sức khỏe, sẽ tăng lên. Các nhà phân tích dự đoán rằng chi tiêu công của nhiều nước phát triển cho lương hưu, chăm sóc sức khỏe và chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi đang trên đà chiếm khoảng 25% GDP vào năm 2050. Những xu hướng này đang tác động đến cả các nền dân chủ già hóa với hệ thống an sinh xã hội vững mạnh, lẫn các chế độ độc tài vốn có lịch sử ít hào phóng hơn. Năm 2009, Trung Quốc chi 4,4% GDP cho lương hưu và chăm sóc sức khỏe. Con số này tăng lên 8% vào năm 2020 và được dự báo sẽ tăng lên hơn 10% vào năm 2030 và khoảng 20% vào năm 2050.

Chính phủ chi hàng tỷ USD để đối phó không chỉ với hậu quả của dân số già hóa mà còn với nguyên nhân của chúng. Các quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) chi trung bình 2,3% GDP cho các chương trình trẻ em và gia đình, nhiều chương trình trong số đó được thiết kế để thúc đẩy tỷ lệ sinh (mặc dù ít chương trình có hiệu quả đáng kể).

Dân số già hóa nhanh chóng cũng gián tiếp chịu trách nhiệm về chi tiêu của chính phủ cho an ninh nội địa và các chương trình phúc lợi cho người không cao tuổi vì chúng đóng góp mạnh mẽ vào nhiều nguồn gốc chính của sự bất mãn gia tăng ở thế giới phát triển, bao gồm tăng trưởng kinh tế chậm lại, thắt lưng buộc bụng, căng thẳng sắc tộc và chống người nhập cư gia tăng, khi các nhóm thống trị lo sợ sự suy tàn nhân khẩu học của họ. Để đối phó với tình trạng bất ổn gia tăng, nhiều chính phủ cố gắng trấn áp các nhóm bất mãn hoặc xoa dịu họ thông qua các chương trình xã hội. Ví dụ, Trung Quốc đã tăng gấp bốn lần chi tiêu cho cảnh sát và giám sát nội địa từ năm 2007 đến 2020; đến năm 2020, các khoản chi này đã vượt chi tiêu quân sự. Chi tiêu của Nhật Bản cho hỗ trợ lao động và việc làm, cứu trợ nghèo đói và bảo trợ xã hội (không bao gồm chi tiêu cho người cao tuổi và chăm sóc sức khỏe) đã tăng từ 0,5% lên 3,7% GDP từ năm 1990 đến 2020.

Khi các quốc gia chi tiêu nhiều hơn để giải quyết các nguyên nhân và hậu quả của già hóa, các khoản chi khác, bao gồm cả quân sự, có thể sẽ bị loại bỏ do ngân sách ngày càng eo hẹp. Mặc dù các chính phủ không nhất thiết phải cắt giảm chi tiêu quân sự để giúp chi trả cho chi phí phúc lợi người cao tuổi ngày càng tăng, nhưng họ sẽ có những động lực mạnh mẽ để làm như vậy. Mặc dù chi tiêu quân sự có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách sử dụng lao động chưa được sử dụng hết, kích thích tổng cầu và tài trợ nghiên cứu cuối cùng giúp các ngành công nghiệp dân sự, nhưng như nghiên cứu của J. Paul Dunne và Nam Thiên đã chỉ ra, nó có nhiều khả năng gây hại cho tăng trưởng dài hạn bằng cách giảm chi tiêu cho các khoản đầu tư hiệu quả hơn và bằng cách góp phần vào mức nợ cao hơn. Kết hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm và những ràng buộc ngân sách chặt chẽ do chi phí phúc lợi cho người cao tuổi quá lớn, chi tiêu quân sự có thể trở thành một nguồn lực hấp dẫn để tái phân bổ.

Phân tích thống kê của các quốc gia dân chủ và độc tài chỉ ra rằng một khi chi tiêu của chính phủ cho phúc lợi xã hội, bao gồm cả người cao tuổi, vượt quá 25% trong tổng ngân sách của một quốc gia, khả năng quốc gia đó khởi xướng một cuộc xung đột quân sự giảm đáng kể. Nhiều quốc gia già hóa đang ở ngưỡng hoặc đã vượt qua ngưỡng này. Chi tiêu cho người cao tuổi, thất nghiệp và duy trì thu nhập (và các khoản chi liên quan) chiếm trung bình gần 21% tổng chi tiêu của chính phủ ở các quốc gia OECD vào năm 2021. Với việc các khoản chi này sẽ chỉ tăng lên, các quốc gia này sẽ có những động lực ngân sách mạnh mẽ để tránh khởi xướng các hành động quân sự.

Khan hiếm quân nhân giỏi

Cách cuối cùng mà dân số già hóa sẽ làm thế giới hòa bình hơn là bằng cách thu hẹp quy mô nhóm tuổi sung sức nhất để phục vụ quân đội. Năm 2050, số người từ 18 đến 23 tuổi ở Đông Á sẽ giảm gần 48 triệu so với năm 2020, tương đương 42%; Mỹ Latinh giảm gần 9 triệu người, tương đương 13%; và châu Âu sẽ giảm hơn 8 triệu người, tương đương 17%. Nói một cách đơn giản, các quốc gia già hóa sẽ khó khăn hơn trong việc huy động nhân lực cần thiết để chiến đấu trong các cuộc chiến tranh kéo dài, đẫm máu.

Với số lượng tân binh ở độ tuổi sung sức giảm, quân đội sẽ buộc phải đưa ra những quyết định khó khăn về quy mô và chất lượng lực lượng chiến đấu của mình. Nếu họ không tăng tỷ lệ tuyển quân khi số lượng binh lính tiềm năng giảm đáng kể, họ khó có thể đạt được mục tiêu về nhân sự. Tuy nhiên, nếu quân đội tăng tỷ lệ tuyển quân bằng cách nới lỏng các yêu cầu về tuổi tác, sức khỏe, khả năng thể chất và tinh thần, họ sẽ hy sinh chất lượng để lấy số lượng. Họ cũng có thể cố gắng tăng tỷ lệ tuyển quân bằng cách tăng lương và phúc lợi, như Nga đã làm trong cuộc chiến ở Ukraine. Nhưng trừ khi tổng ngân sách quân sự tăng lên, chi phí lao động trên mỗi binh lính tăng sẽ lấn át các lĩnh vực chi tiêu quân sự khác, bao gồm phát triển, mua sắm và bảo trì vũ khí. Nếu các quốc gia ít có khả năng thắng chiến tranh vì năng lực chiến đấu kém hơn, thì họ cũng sẽ ít muốn phát động chiến tranh hơn.

Các quốc gia già hóa với nguồn tuyển quân ngày càng thu hẹp liên tục gặp khó khăn trong việc đạt được mục tiêu nhân sự quân sự mặc dù thường xuyên nới lỏng các tiêu chuẩn và tăng bồi thường. Từ năm 2000 đến 2021, Nhật Bản trung bình chỉ lấp đầy 93% vị trí nhân sự được cho phép. Mặc dù hạ thấp tiêu chuẩn nhập ngũ và tăng đáng kể lương thưởng cho binh lính sau khi nhóm nam giới từ 18 đến 23 tuổi của nước này bắt đầu suy giảm vào năm 2009, quân đội Trung Quốc vẫn tiếp tục thiếu hụt binh lính có kỹ năng. Nga trong những năm 2010 liên tục không đạt được mục tiêu tuyển quân cả lính nghĩa vụ và lính đánh thuê. Mặc dù những vấn đề nhân sự này không ngăn cản Nga xâm lược Ukraine vào năm 2022, nhưng việc thiếu hụt binh lính chất lượng cao đã cản trở khả năng chiến đấu của nước này, khiến việc thắng cuộc chiến trở nên khó khăn hơn. Nga vẫn tiếp tục chiến đấu ở Ukraine, nhưng những khó khăn về nhân lực của nước này có thể giúp ngăn cản các quốc gia già hóa khác gây chiến trong tương lai.

Các quân đội có thể cố gắng khắc phục tình trạng thiếu hụt nhóm tuổi quân sự bằng cách thay thế công nghệ cho nhân sự. Cuộc cách mạng trí tuệ nhân tạo, những thành công gần đây của các đội drone, và khả năng của “robot sát thủ” có thể làm cho việc thay thế công nghệ cho lao động quân sự quy mô lớn ngày càng hấp dẫn. Nhưng vì nhiều nhiệm vụ quân sự vẫn sẽ đòi hỏi nhiều nhân lực, nên khả năng quân đội dùng công nghệ thay thế cho con người sẽ có giới hạn. Chống nổi dậy và các cuộc chiến cần chiếm đóng lãnh thổ kẻ thù sẽ tiếp tục đòi hỏi quân đội có đủ nhân sự. Tỷ lệ sinh giảm khiến việc đáp ứng nhu cầu này trở nên khó khăn hơn.

Hơn nữa, việc chuyển sang chiến tranh thâm dụng vốn để bù đắp cho dân số binh lính ở độ tuổi sung sức giảm dần có thể sẽ đòi hỏi tuyển dụng nhân sự chất lượng cao hơn để vận hành, sử dụng và bổ sung cho các thiết bị tinh vi hơn. Ví dụ, một báo cáo năm 2022 của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội Mỹ đã kết luận rằng các hệ thống máy bay không người lái trong quân đội Mỹ có thể sẽ đòi hỏi số lượng quân nhân tương đương hoặc thậm chí nhiều hơn so với các loại máy bay có người lái. Tìm kiếm những binh lính có năng lực cao này sẽ khó khăn trong một thế giới dân số già hóa.

Thế hệ phản đối

Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại và nguồn lực quân sự giảm sút có thể khiến quân đội của các nước già hóa yếu đi, từ đó dẫn đến quan hệ quốc tế hòa bình hơn, nhưng điều ngược lại vẫn có thể xảy ra. Khả năng quân sự suy giảm có thể thúc đẩy các nhà lãnh đạo nhìn thấy cơ hội cuối cùng để dùng vũ lực nhằm đạt được mục tiêu quốc gia. Nhưng họ có thể sẽ đối mặt với áp lực đối trọng vì dân số già hóa có xu hướng ưa chuộng hòa bình. Hàng thập kỷ dữ liệu khảo sát cho thấy mọi người có xu hướng trở nên ôn hòa hơn và phản đối việc sử dụng vũ lực khi họ già đi. Một phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Pew năm 2006 về các cuộc khảo sát được thực hiện tại Mỹ từ đầu những năm 1960 đến giữa những năm 2000 kết luận rằng “có một khoảng cách thế hệ về các cuộc can thiệp quân sự của Mỹ”, với người Mỹ lớn tuổi luôn thể hiện “sự thận trọng cao nhất về việc sử dụng vũ lực quân sự”. Tương tự, Jessica Chen Weiss cũng kết luận, dựa trên các cuộc khảo sát từ những năm 2010, người dân Trung Quốc lớn tuổi ít có khả năng tin rằng Trung Quốc dựa vào sức mạnh quân sự “quá ít”, và cũng ít xem sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Đông Á là “mối đe dọa lớn” hơn đáng kể so với những người trẻ tuổi.

Dân số già hóa cũng có xu hướng phản đối việc binh lính của đất nước mình phải chết trong chiến tranh hơn. Thương vong quân sự và cái chết của những người trẻ chưa có con có thể làm tăng nỗi sợ hãi rằng chiến tranh sẽ làm suy yếu vĩnh viễn một quốc gia vốn đã suy giảm dân số.

Sự phản đối công khai ngày càng tăng đối với các cái chết và thương vong quân sự đặc biệt quan trọng trong các nền dân chủ vì nó có thể gây nguy hiểm cho sự ủng hộ của cử tri đối với các nhà lãnh đạo. Nhưng khi dân số già đi, điều đó cũng sẽ quan trọng đối với các chế độ độc tài, những người có thể lo ngại rằng tổn thất trong thời chiến có thể gây ra phản ứng dữ dội trong nước. Ví dụ, đến năm 2030, gần một nửa nhóm tuổi quân sự chính của Trung Quốc sẽ là con một. Tỷ lệ sinh thấp ở Trung Quốc đã dẫn đến sự tồn tại của hàng trăm nghìn cha mẹ shidu (mất con), những người đã mất đứa con duy nhất mà chính phủ cho phép họ có theo hệ thống một con cũ. Trong suốt những năm 2010, những cha mẹ này đã biểu tình hàng năm trước trụ sở của Ủy ban Kế hoạch hóa Gia đình và Sức khỏe Quốc gia ở Bắc Kinh để yêu cầu chính phủ cung cấp một số hỗ trợ mà họ lẽ ra đã mong đợi nhận được từ con cái đã qua đời của họ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc càng có lý do để tin rằng các bậc cha mẹ có con một bị mất con có khả năng biểu tình, thì họ càng thận trọng hơn khi khởi xướng một cuộc chiến.

Hòa bình nhờ dân số già

Già hóa dân số sẽ không xóa bỏ hoàn toàn chiến tranh, như cuộc xâm lược Ukraine của Nga đã chứng minh. Nhưng nó sẽ làm giảm khả năng chiến đấu của các chính phủ hoặc sự ủng hộ của công chúng đối với họ. Tất cả các quốc gia già hóa, bất kể tham vọng xét lại hay sự phụ thuộc vào sự gây hấn quân sự, sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt trực tiếp với những tác động của cuộc cách mạng nhân khẩu học này. Nhân khẩu học đóng một vai trò lớn trong việc xác định những gì có thể về kinh tế và quân sự. Già hóa, do đó, có thể sẽ trở thành một lực lượng mạnh mẽ cho hòa bình chưa từng tồn tại trước đây.

MARK L. HAAS là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Duquesne. Ông là tác giả của cuốn sách Hòa Bình Già Hóa: Dân Số Già Hóa và Sự Suy Giảm Chiến Tranh.

(theo Nghiên cứu quốc tế)

You may also like

Verified by MonsterInsights