Sài Gòn có điện từ bao giờ?

by Tim Bui
Sài Gòn có điện từ bao giờ?

LÊ NGUYỄN

Việc thắp sáng nhà cửa, đường phố là nhu cầu thiết yếu bậc nhất của bất cứ xã hội nào. Sau khi chiếm lấy vùng đất Nam Kỳ làm thuộc địa, thực dân Pháp từng bước xây dựng hạ tầng cơ sở như thành lập hệ thống điện báo, bưu chính, mở mang mạng lưới giao thông… Vấn đề cung cấp nước sạch được họ tính đến từ thập niên 1870, song chuyện cải tiến hệ thống thắp sáng bằng kỹ thuật điện khí hóa phải chờ đến thập niên 1890 mới có thể khởi động được.

Vào những ngày đầu Pháp thuộc, Sài Gòn còn là một thị tứ tên Bến Nghé. Vào nửa đầu thập niên 1860, Sài Gòn có khoảng 24 con đường, được đánh số từ 1 đến 24 và với tổng chiều dài hơn 15 cây số. Đến năm 1865, lần đầu tiên các con đường mới được đặt tên, phần lớn lấy theo tên một số nhân vật chính trị, quân sự của Pháp như Charner, Rigault de Genouilly, Catinat, Taberd, Bonard, Chaigneau, Lefèbvre …Cũng từ đó, nhiều nhu cầu về quốc kế dân sinh buộc chính quyền thực dân Pháp phải bắt tay vào việc giải quyết, trong đó có nhu cầu thắp sáng thành phố. 

Đốt đèn đường bằng loại dầu nào?

Năm 1865, lần đầu tiên, chính quyền thực dân Pháp đặt vấn đề có đèn đường trên các con đường vào ban đêm. Ngày 27/9/1865, Giám đốc Nha Nội vụ (Directeur de l’Intérieur) Paulin Vial gửi đến Thống đốc, Tư lệnh quân viễn chinh, là Phó Đô đốc De La Grandière, một báo cáo với đề nghị đốt đèn các con đường tại Sài Gòn bằng loại đèn sử dụng dầu dừa. Báo cáo nêu rõ chi phí cho vật tư vào khoảng 30 ngàn Franc, chỉ riêng về dầu thắp, mỗi ngày phải tốn 46,200 kg, tính ra mỗi năm 16.863 kg, trị giá 15.176 franc. Chi phí này chưa vượt quá mức thuế môn bài vào năm 1865 đạt hơn 50 ngàn Franc. 

P. Vial cũng nhắc lại việc một thương gia đã cung cấp cho thành phố Chợ Lớn loại đèn chùm giống như đèn của thành phố Avignon bên Pháp và kết luận bản báo cáo: “sự lưu thông đông đúc trên những con đường của thành phố không cho phép chúng ta chờ đợi lâu mà không gặp những bất tiện đáng kể nào.”

Thể theo đề nghị của P. Vial, Phủ Thống đốc Nam kỳ ban hành một nghị định yêu cầu cư dân địa phương phải tự thắp sáng lối ra vào nhà của mình. Về việc đốt đèn công cộng ban đêm, trước năm 1867, chính quyền thực dân Pháp ký hợp đồng với một người gốc Ấn Độ (malabar) việc thắp sáng toàn bộ đèn trên các con đường với giá 33 xu (0,33 franc) mỗi ngọn đèn/ một đêm, song thỏa thuận này đã không được thực hiện rốt ráo: ở một số nơi, đèn không được thắp sáng, đèn không có bấc, đèn không châm đủ dầu …

Trong phiên họp ngày 12/11/1867, nhận thấy giá biểu và các đề nghị của nhà thầu Andrieu là phải chăng và hợp lý, Hội đồng thành phố Sài Gòn đề nghị giao thầu cho Andrieu. Giờ đốt đèn đường mỗi ngày bắt đầu từ 6 giờ đến 6 giờ 30 chiều, tùy theo mùa, và tắt đèn vào 5 giờ sáng hôm sau, không được sớm hơn, vì từ 4 đến 5 giờ sáng là cao điểm của các vụ trộm cắp. Giá trả cho nhà thầu được điều chỉnh lên 60 xu/đèn/ngày.

      Năm 1869 bắt đầu nảy sinh vấn đề chọn lựa loại dầu nào là tối ưu. Trong phiên họp ngày 3/6/1869, một số thành viên của Hội đồng Thành phố Sài Gòn đề nghị thành lập một ủy ban thu thập thông tin và trình lên Hội đồng một báo cáo chi tiết về vấn đề này. Năm tháng sau đó, một báo cáo của viên chức chỉ huy ngành cầu đường khẳng định việc đốt đèn đường bằng dầu hôi có lợi hơn nhiều so với việc dùng dầu dừa. Vì thế, trong phiên họp ngày 11/11/1869, Hội đồng quyết định dùng dầu hôi để đốt đèn công cộng kể từ ngày 1/4/1870.

       Tại một số khu vực đông dân cư, hoạt động nhộn nhịp, nhà cầm quyền Pháp cho lắp 17 cụm đèn chùm tại Cầu ông Lãnh, đường Catinat nối dài (nay là Đồng Khởi), đường Isabelle II (sau là Espagne, nay là Lê Thánh Tôn), bắt đầu từ đường Hôpital (nay là đường Pasteur) và đường Impériale nối dài (sau là Paul Blanchy, nay là Hai Bà Trưng). Năm 1876, cả thành phố Sài Gòn có 255 cột đèn gồm 200 cây bằng gang, số còn lại bằng gỗ.

Phương án thắp đốt đèn bằng gas

      Năm 1869, trong lúc cuộc thảo luận về việc dùng dầu dừa hay dầu lửa chưa ngã ngũ, thì một đề xuất khác được đưa ra, đó là việc sử dụng gas (khí đốt) tách từ dầu thô. Ngày 14/6/1869, Hội đồng thành phố Sài Gòn tổ chức phiên họp thảo luận về kết quả làm việc của một ủy ban cứu xét đề xuất này. 

     Tính ra kinh phí cần thiết để xây dựng và tổ chức, điều hành một nhà máy cung cấp gas chiếm đến 220 ngàn franc. Một nhà thầu tên Roberdeau, vốn là một kỹ sư đang sống tại Phúc Châu (Foo-Chow), Trung Quốc, nhận giá 150 ngàn franc cho việc cung cấp ống dẫn khí, làm hệ thống đường dẫn. Nhà thầu trên cũng đòi hỏi thành phố bảo đảm sử dụng tối thiểu 300 bec gas, với giá 0,60 franc. cho mỗi mét khối gas. Sau khi tính toán kỹ, ủy ban nhận thấy nếu sử dụng gas thay vì dầu lửa như lúc đó, thì phải có thêm 13.140 franc. mỗi năm. Chi phí trả thêm không phải là lớn, song Hội đồng thành phố quyết định cử một ủy ban đi Singapore, Hong Kong và Batavia để thu thập các thông tin cần thiết hầu làm sáng tỏ thêm vấn đề đang bàn cãi. Kết quả là giá hiến của Roberdeau thấp hơn giá bán gas của những thành phố này khoảng 14 -15%.

      Các nghị viên của Hội đồng thành phố Sài Gòn khá mặn mà với phương án sử dụng gas, song vấn đề được thảo luận liên tục từ năm 1869 đến năm 1891 vẫn chưa ngã ngũ, với đề xuất của nhiều nhà thầu khác nhau, cuối cùng sự chênh lệch giữa kinh phí đốt đèn bằng dầu hôi và bằng gas lên đến hàng trăm ngàn franc mỗi năm đã khiến cho không một đề xuất nào đạt được sự đồng thuận của mọi người. Sự thất bại của phương án này một phần do đề xuất điện khí hóa đã được nêu lên cách đó bốn năm (1887).

Phương án điện khí hóa thành phố Sài Gòn

Một năm sau khi đề nghị điện khí hóa được đưa ra, trong  phiên họp ngày 20/1/1888, Hội đồng thành phố Sài Gòn chấp thuận hai đề nghị:

– Đề nghị của Rouyer cho thử đốt đèn ở Nhà hát thành phố. 

– Đề nghị của Carabelli, Xã trưởng Sài Gòn, cho đốt đèn ở con đường nhỏ nối liền hai đường Rigault de Genouilly và Catinat, là nơi rất nhiều người qua lại vào ban đêm.

     Những tháng đầu năm 1889, một người Âu tên Ferret xin làm đèn đường Sài Gòn và các kiến trúc lớn bằng đèn điện với chi phí hàng năm 150 ngàn franc, với độc quyền khai thác trong 30 năm. Ông ta cũng đề nghị xúc tiến việc thử đốt đèn ở nhà hát và một phần đường Catinat gần nhà hát, và trong tương lai sẽ thử nghiệm trong một quy mô lớn hơn nữa. Tuy nhiên, đề xuất của Ferret đã không thành hiện thực khi chính quyền Pháp tại Sài Gòn nhận thấy những bóng đèn trên đường Catinat với công suất 16 nến không sáng bằng đèn dầu hôi.

      Phải đợi đến bốn năm sau, trong phiên họp ngày 20/4/1893, Hội đồng thành phố Sài Gòn mới tiếp tục bàn về đề xuất của một người Âu tên Catoire, theo đó khu trung tâm Sài Gòn sẽ được đặt 393 bóng đèn điện Edison, độ sáng mỗi bóng bằng 16 nến. Những khu vực khác trong thành phố vẫn sử dụng 571 đèn dầu hỏa kiểu mới. Tuy cũng là bóng đèn 16 nến, song là bóng đèn hiệu Edison độ sáng có thể nhiều hơn loại bóng đèn mà Ferret đã thắp thử.

    Catoire đề nghị một hợp đồng kéo dài 20 năm, với một kinh phí hàng năm được nhà cầm quyền trả cho nhà thầu bằng 88.093 franc, tương đương khoảng 25.000 đồng bạc. Tuy nhiên, trong phiên họp trên, Hội đồng thành phố không chấp thuận đề xuất của Catoire do chi phí cao hơn 16 ngàn đồng so với chi phí hiện hành (bằng đèn dầu hôi) mà ánh sáng của đèn điện cũng không mạnh hơn đèn dầu!

     Trong một báo cáo trình lên Hội đồng thành phố Sài Gòn năm 1894, Giám đốc Sở Bưu điện bàn về các kỹ thuật đặt đường dây điện trong thành phố. Trước tiên, ông ta đề nghị bác bỏ kỹ thuật chôn dây ngầm vì quá tốn kém khi phần lớn thành phố nằm trong vùng đất thấp, bị úng nước thường xuyên. Để giảm bớt số cột điện, đỡ tốn kém, ông ta đưa ra một đề xuất khá kỳ lạ là tận dụng cây xanh bằng cách khoan thủng các cành cây dọc hai bên đường, luồn dây điện vào, thay cho các cột trụ nhân tạo. Để biện minh cho phương thức của mình, ông ta cho rằng khi dây điện bị đứt, cành cây sẽ giữ lại, không gây nguy hiểm cho người đi đường như với cách nối dây vào các cột điện rời. May là cách này đã không được chính quyền thực dân áp dụng.

     Cuối cùng thì Hội đồng thành phố Sài Gòn cũng chấp thuận ký hợp đồng ngày 11/5/1896 với Công ty Thủy Điện Sài Gòn thường được viết tắt là CEE, của Hermenier. Trong phiên họp ngày 24/2/1897, Hội đồng chấp thuận đề nghị của công ty thay thế 380 đèn có độ sáng khác nhau bằng 394 đèn loại nóng sáng, với độ sáng 20 nến.

       Ban đầu, nhà máy điện ở Sài Gòn được xây trên đường Paul Blanchy (nay là Hai Bà Trưng) năm 1890, sau Nhà hát Thành phố. Đến đầu thế kỷ 20, với sự phát triển dân cư ngày càng đông, nhà cầm quyền quyết định xây nhà máy điện lớn hơn ở nơi người Pháp mô tả là “ở bên bờ Rạch Bến Nghé, trên ranh giới giữa Sài Gòn và Chợ Lớn” để cung cấp điện cho cả Sài Gòn lẫn Chợ Lớn. Đó là Nhà đèn Chợ quán, cái tên quen thuộc của người Sài Gòn từ đầu thế kỷ XX trở về sau.

      Vào những năm đầu thế kỷ XX, thành phố Sài Gòn đã bắt đầu có đèn điện sáng choang. Đường Catinat được tác giả Nguyễn Liên Phong miêu tả vào ban đêm:

Phong lưu cách điệu ai bằng,
Đường đi trơn láng, đèn giăng sáng lòa  

      Trước năm 1904, đã có điện ở bến Francis Garnier (nay là bến Bạch Đằng), những con đường Duperré (Hàm Nghi), Mac-Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa), Colombert (Thái Văn Lung), Blancsubé (Phạm Ngọc Thạch), Norodom (Lê Duẩn), Paul Blanchy (Hai Bà Trưng), La Grandière (Lý Tự Trọng), Pasteur (Pasteur).

     Năm 1904, lần đầu tiên có đèn đường ở nhiều khu vực trong thành phố, từ rạch Bến Nghé đến đường Bangkok (Mạc Đỉnh Chi). Cũng vào thời điểm này, toàn thành phố Sài Gòn có 867 bóng đèn nóng sáng 16 nến và 67 bóng đèn hồ quang. Riêng đèn nóng sáng nhiều hơn gấp đôi số lượng năm 1904 (386 bóng). Điều này cho thấy sự điện khí hóa các con đường Sài Gòn đã phát triển rất nhanh.

    Khoảng thời gian sau đó, Hội đồng Thành phố quyết định điện khí hóa vùng Khánh Hội, trên cầu bắc qua rạch Bến Nghé, ngõ vào hãng Vận tải đường biển  và chiếc cầu quay ở ranh giới cũ của thành phố. Tuy nhiên việc có đèn điện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nhanh chóng của thành phố, khi đến năm 1908, vẫn chưa đụng đến con đường Mayer (Võ Thị Sáu).

    Mặt khác, theo yêu cầu của Xã trưởng Chợ Lớn, ủy ban điện khí hóa thành phố Sài Gòn dự định lắp đèn những con đường nối liền hai thành phố, với việc khảo sát đầu tiên con Đường Trên (route Haute, nay là Nguyễn Trãi). Chi phí lắp đặt và chiếu sáng con đường này chạy dài đến ranh giới thành phố Chợ Lớn là 3.757 franc, với 35 bóng đèn nóng sáng.  

     Năm 1909, đơn vị lãnh thầu việc đặt đèn đường trong thành phố là Công ty Thủy Điện Đông Dương  xin Hội đồng Thành phố Sài Gòn cho xây dựng Nhà đèn Chợ quán. Vào năm này, khu vực Đakao cũng đã có đèn đường, tạo điều kiện cho người dân sinh hoạt, làm ăn được thuận lợi hơn.

Công nhân thắp đèn đường Norodom ở Sài Gòn cuối thế kỷ 19

Trung tâm Sài Gòn đầu thế kỷ 20

You may also like

Leave a Comment