Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023)

by Tim Bui
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023)

MÔN ĐỒ PHÁP QUYẾN (BAN BIÊN TẬP TYTNT GIẢN LƯỢC)

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, thế danh Phạm Văn Thương, sinh ngày 15-2-1943 theo khai sanh, tuổi thật sinh ngày 05/4/1945, tại tỉnh Paksé, Lào. Thân phụ: Cụ ông Phạm Văn Phận, Pháp danh Trung Thảo. Thân mẫu: Cụ bà Đặng Thị Chín, Pháp danh Diệu Chánh. Nguyên quán xã Nghĩa Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình, Trung phần Việt Nam.

Thuở nhỏ thầy thường được theo mẹ đi chùa làng gần nhà, là nhân duyên để đến lúc thầy chỉ muốn ở chùa không về nhà nữa. Năm 1952, do chạy giặc, thầy được cha mẹ gửi lên chùa hành điệu hầu sư phụ là hòa thượng khai sơn chùa Trang Nghiêm, làng Tân An, tỉnh Paksé, Lào. 

Năm 1954, lúc được 9 tuổi, thầy chính thức được thế phát xuất gia tại chùa này. Đến năm 12 tuổi, vị trụ trì chùa nhận thấy khả năng và thiên tư đặc biệt của người học trò này, đã khuyên gia đình nên đưa thầy về Việt Nam để rộng đường tu học. Năm 1960, thầy trở về Việt Nam, sống xa gia đình tại chùa Bồ Đề, một ngôi chùa nhỏ gần cầu Gia Hội, Huế. 

Tuy vậy với bản tính độc lập, thầy đã một mình rong ruổi qua các địa phương: Huế, Nha Trang, Sài Gòn, Tiền Giang và các tỉnh miền nam, tự lập và sống nương nhờ các tự viện lớn nhỏ. Năm 16 tuổi, Thầy thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thích Hành Trụ tại Sài Gòn. Năm này, thầy thọ an cư Sa-di giới đầu tiên tại chùa Phật Ân, tỉnh Tiền Giang cùng với thầy Trí Minh. Sau cùng thầy được Hòa Thượng Thích Trí Thủ nhận về thiền viện Quảng Hương Già Lam ở Gò Vấp, Sài Gòn. 
Thầy tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn năm 1964 tại Viện Đại Học Vạn Hạnh, Phân khoa Phật học niên khóa 1965. Với các bài viết về Thế Thân (Vasubandhu), về A-tỳ-đạt-ma câu-xá luận, Hòa Thượng Thích Đức Nhuận là người đầu tiên phát hiện tài năng của người tu sĩ trẻ, đã giới thiệu thầy với Hòa Thượng Thích Mãn Giác phó Viện trưởng, lúc đó đã đề nghị viện trao bằng cử nhân cho thầy, nhưng thầy xin phép được từ chối.

Thầy được đặc cách bổ nhiệm giáo sư thực thụ Viện Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1970 nhờ những công trình nghiên cứu Phật học và những khảo luận Triết học có giá trị cao như Đại Cương Về Thiền Quán, Triết Học về Tánh, v.v… Sau đó Thầy kiêm Xử lý Khoa trưởng Phân khoa Phật học tại Đại học này (niên khóa 1972-1973). Thầy tinh thông chữ Hán, biết nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Lào, Thái, Nhật, Tây Tạng, thông thạo hai cổ ngữ Pali và Sanskrit. Thầy cũng đọc hiểu tiếng Đức, nghiên cứu kỹ về Heidegger và Hoelderlin. Cuốn thiền luận nổi tiếng của D.T. Suzuki bản Việt ngữ tập 2 và 3 là do thầy dịch, in và tái bản nhiều lần từ 1972 đến 1975. 

Hòa Thượng Tuệ Sỹ không chỉ uyên bác về Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa, Thầy còn tinh thông triết học tây phương, văn chương, thơ, âm nhạc. Hòa thượng nghiên cứu thẳng từ nguyên tác của các văn nhân, thi sĩ nổi tiếng của Trung quốc như Tô Đông Pha, Lý Hạ, Đỗ Phủ… Ngoài những khảo luận Triết học và Phật học, hòa thượng đã viết tác phẩm đầy thi vị: ‘Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng’. Về âm nhạc, hòa thượng chơi đàn guitar, violon, piano, thổi sáo. Thầy tìm hiểu âm nhạc dân tộc, lại rất am tường nhạc cổ điển tây phương. Hòa thượng làm nhiều thơ, viết một số truyện ngắn và các tiểu luận triết học, phê bình văn học đặc sắc, phần lớn đăng trên các tạp chí Khởi Hành (1969-1972) và Thời Tập (1973-1975) tại Sài Gòn.

Đồng thời hòa thượng cũng là tổng thư ký tòa soạn tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh. Tập thơ đặc sắc bằng chữ Hán, ‘Ngục trung mị ngữ’ được hòa thượng làm trong tù sau năm 1975, và các tập thơ ‘Giấc mơ Trường sơn’, ‘Những điệp khúc cho dương cầm’, ‘Thiên lý độc hành’ sau này đã được dịch ra Anh, Pháp, Nhật ngữ, phát hành rộng rãi tại hải ngoại.

Từ trẻ Hòa thượng đã thuộc lòng các bộ Kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Thắng Man, Duy-ma- cật… Duy-ma-cật sở thuyết là bộ kinh nêu cao tinh thần sống đạo mà chẳng cần y áo hay sự suy tôn kiểu cách. Có thể nói, tư tưởng Bồ-tát đạo trong kinh này và bộ kinh Pháp Hoa đã ảnh hưởng suốt cuộc đời tu học và hành đạo của thầy. Với kiến thức Phật Học uyên thâm, hòa thượng đã viết giảng luận “Huyền thoại Duy-ma-cật”, và đi theo hình mẫu lý tưởng này, hòa thượng đã không ngại dấn thân phụng sự, và ngài đã trở thành biểu tượng của sự đấu tranh ôn hòa cho các giá trị nhân quyền và tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Năm 1973 hòa thượng về Nha Trang làm Giám học Phật học viện Trung do Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám Viện.

Năm 1975, hòa thượng phụ trách giảng dạy tại Phật học viện Trung phần Nha Trang. 

Sau biến cố 30/4/1975, cơ sở này bị đóng cửa, hòa thượng về ẩn cư tại một miếng rẫy chùa ở ven rừng Vạn Giã, cách Nha Trang chừng 60 km.

Đến năm 1977, hòa thượng vào Sài Gòn ở chùa Tập Thành quận Bình Thạnh. 

Năm 1978, hòa thượng bị nhà cầm quyền bắt giam 3 năm không xét xử về tội cư trú bất hợp pháp. Đến cuối năm 1980 thì thầy được phóng thích.

Từ năm 1980 đến 1984, hòa thượng làm giáo thọ sư cho khóa đào tạo đặc biệt tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam do Trưởng Lão Hòa thượng Thích Trí Thủ làm Giám Viện.

Tháng 4/1984, hòa thượng lại bị bắt cùng Giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và 17 tăng ni, cư sĩ phật tử. Trong phiên tòa kéo dài nhiều ngày vào cuối tháng 9 năm 1988, không chấp nhận luật sư chỉ định biện hộ mà hai thầy tự biện hộ cho mình, nhà cầm quyền đã kết án “tử hình” hai Thầy Tuệ Sỹ và Trí Siêu vì tội “âm mưu lật đổ chính quyền”.

Do sự tranh đấu tích cực của các nhân sĩ trong và ngoài nước, cùng sự can thiệp của các cơ quan nhân quyền quốc tế, chính quyền Hà Nội phải giảm án hai thầy xuống còn 20 năm khổ sai và đem giam hòa thượng tại Xuân Lộc, Đồng Nai, sau đó chuyển riêng hòa thượng ra trại A-20 tỉnh Phú Yên. 

Tháng 10/1994, với sự phản kháng trong tù, hòa thượng bị nhà cầm quyền tách đưa ra trại giam Ba sao, miền Bắc. Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã được Tổ chức Human RigHòa thượngs Watch trao giải thưởng tranh đấu nhân quyền (Hellman-Hammett Awards) cùng với 7 nhà đấu tranh khác vào ngày 03/8/1998.

Với áp lực khắp nơi trên thế giới, chính quyền Hà Nội phải trả tự do cho Hòa thượng cùng với một số người khác. Trước khi thả, nhà cầm quyền áp lực buộc Hòa thượng ký vào lá đơn gửi ông Chủ tịch nước “xin khoan hồng”, Hòa thượng đã trả lời với nội dung như sau: “Chúng tôi đã không công nhận giá trị của phiên tòa này, tính pháp lý của bản án này, các ông không có quyền giam giữ chúng tôi thì sao lại có quyền khoan hồng hay ân xá chúng tôi.” 

Ngày 02/9/1998, lúc 10 giờ 45, Hòa thượng Tuệ Sỹ được đưa lên xe lửa về Nam. Ngồi suốt 36 tiếng đồng hồ trên xe với sức khỏe rất yếu sau khi tuyệt thực trong tù, hòa thượng không chịu nổi nên được đưa xuống ga Nha Trang, về tạm ở Phật học viện Hải Đức. 

Ít lâu sau công an lại ra lệnh hòa thượng phải về chùa Già Lam ở Sài-gòn, không được phép ở Nha Trang. Hòa thượng từ chối, viết một lá thư gửi cho nhà cầm quyền, nói “một là tôi tự do ở đâu tôi muốn, hai là vào tù trở lại, chứ mấy ông không thể thả tôi ra khỏi nhà tù nhỏ để nhốt tôi vào nhà tù lớn hơn là cả đất nước này”. Tin này lập tức được loan truyền trên báo chí hải ngoại thời đó.

Trước sau, hòa thượng đã lãnh một án tử hình, 17 năm tù đày và ba lần bị quản thúc, trải qua các nhà tù khắc nghiệt khắp nam trung bắc. Tuy nhiên điều đó vẫn không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn, và vẫn giữ được lòng thanh thản bao dung không chút oán hận của thầy.

Tháng 4 năm 1999, Hòa thượng Thích Quảng Độ đề cử Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ làm Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.
Năm 2002, với trách nhiệm Đệ Nhất Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một trong những nhà lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, là người đóng góp rất nhiều cùng với nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ trong công cuộc đấu tranh đòi hỏi quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhất là quyền phục hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Đối với Hòa thượng Tuệ Sỹ, sức mạnh của phật giáo không phải là chính trị, mà là văn hóa và xã hội, trong đó giáo dục có vai trò rất quan trọng. Nhưng công cuộc giáo dục này phải do giáo hội độc lập đề ra, không thể chịu sự kiểm soát hay áp đặt của bất cứ thế lực nào, thì mới mong đào tạo ra những thế hệ tăng ni có tài đức để phụng sự xã hội, xứng danh trong hàng tăng bảo.

Tiếp đến, đầu tháng 3/2003, Hòa thượng Tuệ Sỹ khâm lệnh Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, từ nơi bị quản thúc tại Quảng Hương Già Lam, Thầy đã tháp tùng Hòa thượng Thích Huyền Quang ra Hà Nội chữa bệnh và chuẩn bị gặp thủ tướng đương thời là ông Phan Văn Khải, để yêu cầu ngài thủ tướng giải quyết việc đã đình chỉ sinh hoạt của GHPGVNTN từ sau năm 1975, cũng như sự cấm đoán, quản chế không xét xử bản thân hòa thượng cùng với hòa thượng. Thích Quảng Độ và một số tăng ni, phật tử khác. Trong dịp này, đại diện ngoại giao của 6 nước thành viên Khối Liên Âu và Hoa Kỳ tại Hà Nội đã chủ động tìm gặp Hòa thượng Tuệ Sỹ, mời hòa thượng đến thăm, làm việc tại trụ sở ngoại giao của phái bộ Liên Âu ở Hà Nội. Họ đón hòa thượng đi một mình, không có thị giả, người phiên dịch.

Ngày 01/10/2003, hòa thượng đã cùng nhị vị hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ tổ chức đại hội bất thường GHPGVNTN tại Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định. Sau đại hội này, hai vị đại lão hòa thượng cũng như Hòa thượng Tuệ Sỹ và một số tăng ni tham dự đã bị nhà cầm quyền quản chế mỗi người một nơi, giám sát chặt chẽ. Tuy nhiên với tinh thần ‘uy vũ bất năng khuất’, hòa thượng đã sát cánh cùng nhị vị hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ ủy thác cho các GHPGVNTN Hải Ngoại tổ chức đại hội bất thường GHPGVNTN tại Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu trong cùng năm 2003. Chính đại hội này đã công bố đầy đủ nhân sự lãnh đạo giáo hội trong nước và hải ngoại, và toàn thể tăng ni phật tử đã suy tôn Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đệ tứ Tăng thống GHPGVNTN.

Năm 2008, đức Đệ Tứ Tăng thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang viên tịch. Ngôi vị được trao lại cho Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ truyền thừa, là Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN.

Từ đây, Hòa thượng Tuệ Sỹ được yên tâm dành hết thời gian và sức lực cho công việc trước tác, phiên dịch Phật ngôn, và đào tạo từng nhóm tăng ni đủ trình độ nghiên cứu Phật học, phiên dịch kinh điển sau này. Trong thời gian này hòa thượng đã hoàn thành phiên dịch, hiệu đính 4 bộ kinh A-hàm, kinh Duy-ma-cật sở thuyết, bộ Luật Tứ phần, các bộ Luận Thành Duy Thức, A-tì-đạt-ma Câu-xá, và nhiều trước tác khác…

Tháng 03/ 2019, Đại lão Hòa thượng Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN dự tri thời chí, biết sức khỏe không còn nhiều, Ngài đã mời Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đến gặp tại chùa Từ Hiếu, quận 8, Sài Gòn để phú chúc di ngôn và ấn tín của Viện Tăng thống GHPGVNTN, ủy nhiệm Hòa thượng Tuệ Sỹ lãnh đạo, xử lý thường vụ Viện Tăng thống sau khi ngài viên tịch.

Đến tháng 02/2020 Đại lão Hòa thượng Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN thuận thế vô thường, an nhiên thị tịch tại chùa Từ Hiếu. Lúc này, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đang chữa trọng bệnh tại Nhật Bản và bị mắc kẹt tại đây do đại dịch Covid, không thể về nước.

Tháng 10/2020 ngay khi có lại các chuyến bay thương mại, hòa thượng là một trong số người đầu tiên về nước, dù lúc đó các bác sĩ Nhật Bản khuyên nên ở lại chữa trị, nếu không thì cuộc sống không thể kéo dài quá 6 tháng.

Trong cơn đại dịch năm 2021, hòa thượng vẫn kiên trì mạnh mẽ chống chọi cơn bạo bệnh để hàng ngày ngồi bên bàn dịch kinh, hiệu đính các tác phẩm, tổ chức sắp xếp thư mục cho công trình phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn học thuật quốc tế.

Qua năm 2022: Ngày 21/8, tại chùa Phật Ân, Long Thành, Đồng Nai, Hội đồng Giáo phẩm Trung ương GHPGVNTN đã suy cử Hòa thượng. Thích Tuệ Sỹ đảm nhiệm trách vụ Chánh thư ký kiêm Xử lý thường vụ Viện Tăng Thống.

Tiếp ngày 22/8 tại chùa Từ Hiếu, quận 8, Sài-gòn, đã cử hành lễ truyền trao ấn tín và khai ấn Viện Tăng Thống cho Hòa thượng.

Từ đó, hòa thượng đã dành hết thời gian và sức khỏe còn lại để chuyên tâm phiên dịch kinh tạng, hiệu đính, chứng nghĩa cho các dịch phẩm của hàng hậu bối.

Những ngày cuối đời, từ giường bệnh, hòa thượng đã cẩn thận sắp xếp, dặn dò những việc cần làm của GHPGVNTN cũng như công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam cho các hội đồng, sau đó đã thuận thế vô thường thâu thần thị tịch tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam, vào lúc 16:00 giờ, ngày 24 tháng 11 năm 2023, nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, trụ thế 79 năm, hạ lạp 41.

Sự ra đi của hòa thượng không chỉ là mất mát lớn lao của GHPGVNTN mà còn là niềm đau chung của Phật giáo Việt Nam, cũng như là sự khuất bóng đáng tiếc của một anh tài tinh hoa dân tộc; nhưng di sản văn hóa, giáo dục to lớn mà hòa thượng để lại xứng đáng làm tư lương tối thiết cho hành giả và học giả muôn đời sau.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh tông tứ thập tứ thế, Việt Nam Phật Giáo Thống Nhất Giáo Hội, Tăng Thống Viện Chánh Thư Ký Xử lý Thường Vụ, húy thượng NGUYÊN hạ CHỨNG, hiệu TUỆ SỸ, Trưởng lão Hòa thượng Giác linh thùy từ chứng giám.

Sài Gòn ngày 24/11 năm 2023.
Nguồn: Môn đồ Pháp quyến
(Ban biên tập TYTNT giản lược lại)

You may also like

Leave a Comment

Verified by MonsterInsights